Khảo sát tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem/colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh viện

Nhiễm khuẩn bệnh viện đang trở thành một

trong những thách thức lớn đối với ngành y tế

của mọi quốc gia trên thế giới. Điều đáng lo ngại

nhất của nhiễm khuẩn bệnh viện là làm trầm

trọng hơn tình trạng đề kháng kháng sinh, và đề

kháng kháng sinh tăng sẽ làm cho nhiễm khuẩn

bệnh viện càng nan giải hơn, tạo thành vòng lẩn

quẩn khó tìm thấy lối ra(1,14,15).

Trong nhiễm khuẩn bệnh viện thì viêm

phổi bệnh viện là bệnh lý nhiễm khuẩn đứng

hàng thứ hai về mức độ phổ biến nhưng có tỷ

lệ tử vong đứng hàng đầu, nhất là đối với

những bệnh nhân được hỗ trợ thông khí cơ

học. Acinetobacter baumannii là một trong

những tác nhân gây bệnh thường gặp nhất

hiện nay(4,15,16). Trong những năm gần đây,

Acinetobacter baumannii tăng rất nhanh khả

năng đề kháng kháng sinh, đặt ra những thách

thức vô cùng lớn cho các nhà lâm sàng cũng

như vi sinh y học(3,10,15). Tìm ra giải pháp đối

phó hợp lý với Acinetobacter baumannii là vấn

đề đầu tiên phải nghĩ đến khi muốn cải thiện

tình trạng viêm phổi bệnh viện nói riêng và

nhiễm khuẩn bệnh viện nói chung, ít nhất là

trong giai đoạn hiện nay

pdf 7 trang dienloan 6680
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem/colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem/colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh viện

Khảo sát tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem/colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh viện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 438
KHẢO SÁT TÁC DỤNG HIỆP ĐỒNG IN VITRO 
CỦA IMIPENEM/COLISTIN VÀ MEROPENEM / COLISTIN 
ĐỐI VỚI VI KHUẨN ACINETOBACTER BAUMANNII 
TRONG VIÊM PHỔI BỆNH VIỆN 
Nguyễn Hồng Tâm*, Phạm Hùng Vân**, Nguyễn Thanh Bảo***, Cao Minh Nga*** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Acinetobacter baumannii đang là vi khuẩn hàng đầu gây viêm phổi bệnh viện và có tính đa kháng 
kháng sinh. Việc tìm ra giải pháp điều trị hiệu quả đối với Acinetobacter baumannii đang là vấn đề cấp thiết của 
các nhà lâm sàng hiện nay. 
Mục tiêu: Đánh giá tình hình đề kháng của Acinetobacter baumannii đối imipenem, meropenem và colistin 
và tác dụng phối hợp của colistin với imipenem hay meropenem đối với vi khuẩn này. 
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, phân tích. Các chủng Acinetobacter baumannii gây viêm phổi 
bệnh viện tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương được lấy mẫu trong thời gian từ tháng 11/2013 đến tháng 05/2014. 
Kết quả: Số chủng Acinetobacter baumannii được nghiên cứu là 85. Tỷ lệ đề kháng với imipenem, 
meropenem, colistin lẩn lượt là 91,76%, 94,12% và 7,06%. Có 91,76% chủng đề kháng đồng thời imipenem và 
meropenem. Các phối hợp kháng sinh imipenem/colistin và meropenem/colistin hầu hết cho tác dụng hiệp đồng và 
cộng lực, tác dụng độc lập rất ít và không có tác dụng đối kháng. Hai phối hợp kháng sinh cho các tỷ lệ hiệp đồng 
và cộng lực khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Colistin ở các nồng độ dưới MIC có tác dụng chuyển các chủng 
Acinetobacter baumannii không nhạy imipenem hay meropenem thành nhạy. Ở tác dụng này, 
meropenem/colistin cho tỷ lệ chuyển đổi cao hơn imipenem/colistin. 
Kết luận: Acinetobacter baumannii đề kháng imipenem, meropenem với tỷ lệ rất cao. Phối hợp imipenem 
hay meropenem với colistin cho các tác dụng diệt khuẩn hiệu quả đối với Acinetobacter baumannii. 
Từ khóa: imipenem, meropenem, colistin, phối hợp. 
ABSTRACT 
IN VITRO EFFECTS OF IMIPENEM OR MEROPENEM IN COMBINATION WITH COLISTIN 
AGAINST ACINETOBACTER BAUMANNII 
Nguyen Hong Tam, Pham Hung Van, Nguyen Thanh Bao, Cao Minh Nga 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 438 - 444 
Background: Acinetobacter baumannii are becoming a major cause of hospital acquired pneumonia and 
having multi-drug resistance ability. Nowadays, an effective treatment for Acinetobacter baumannii is the most 
important problem for the clinicians. 
Objective: To investigate the resistance ability of Acinetobacter baumannii to imipenem, meropenem and 
colistin and the effectiveness of their combinations. 
Method: Retrospective descriptive analysis study. Samples were collected from patients with HAP in 
Nguyen Tri Phuong Hospital from November 2013 to May 2014. 
* Trung tâm Kiểm dịch Quốc tế TP. HCM ** Khoa Vi sinh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 
*** Bộ môn Vi sinh, Khoa Y - Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Hồng Tâm ĐT: 0903 913 084 Email: tam_nh@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 439
Results: 85 strains were studied. The resistance rate to imipenem, meropenem, colistin were 91,76%, 
94,12%, 7,06% respectively. There were 91,76% of the strains resistant to imipenem and meropenem 
simultaneously. Synergy effects and additive effects of two combinations were found in the majority of strains, 
there were a few indifference effects and no antagonism effect. The differences between the effect rates of two 
combinations was not statistically significant. Colistin in concentrations below the MIC had the transfer effect to 
make imipenem- or meropenem-nonsusceptible strains to susceptible ones. Meropenem/colistin had the transfer 
rates higher than imipenem/colistin. 
Conclusion: Acinetobacter baumannii had very high resistance rates to imipenem and meropenem. The 
combination of imipenem or meropenem with colistin showed positive effects on Acinetobacter baumannii. 
Key words: imipenem, meropenem, colistin, combination. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn bệnh viện đang trở thành một 
trong những thách thức lớn đối với ngành y tế 
của mọi quốc gia trên thế giới. Điều đáng lo ngại 
nhất của nhiễm khuẩn bệnh viện là làm trầm 
trọng hơn tình trạng đề kháng kháng sinh, và đề 
kháng kháng sinh tăng sẽ làm cho nhiễm khuẩn 
bệnh viện càng nan giải hơn, tạo thành vòng lẩn 
quẩn khó tìm thấy lối ra(1,14,15). 
Trong nhiễm khuẩn bệnh viện thì viêm 
phổi bệnh viện là bệnh lý nhiễm khuẩn đứng 
hàng thứ hai về mức độ phổ biến nhưng có tỷ 
lệ tử vong đứng hàng đầu, nhất là đối với 
những bệnh nhân được hỗ trợ thông khí cơ 
học. Acinetobacter baumannii là một trong 
những tác nhân gây bệnh thường gặp nhất 
hiện nay(4,15,16). Trong những năm gần đây, 
Acinetobacter baumannii tăng rất nhanh khả 
năng đề kháng kháng sinh, đặt ra những thách 
thức vô cùng lớn cho các nhà lâm sàng cũng 
như vi sinh y học(3,10,15). Tìm ra giải pháp đối 
phó hợp lý với Acinetobacter baumannii là vấn 
đề đầu tiên phải nghĩ đến khi muốn cải thiện 
tình trạng viêm phổi bệnh viện nói riêng và 
nhiễm khuẩn bệnh viện nói chung, ít nhất là 
trong giai đoạn hiện nay. 
Trước đây, để điều trị nhiễm khuẩn do 
Acinetobacter baumannii, người ta dùng thường 
dùng hai loại kháng sinh thuộc nhóm 
carbapenem là imipenem và meropenem. 
Nhưng trong vài năm gần đây, Acinetobacter 
baumannii bắt đầu đề kháng carbapenem với tỷ 
lệ cao buộc chúng ta phải có giải pháp mới thay 
thế, một trong số đó là giải pháp phối hợp 
colistin với imipenem hay meropenem và giải 
pháp này đã chứng tỏ được tính hiệu quả và khả 
thi ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng tại Việt Nam, 
cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá hiệu quả của các phối hợp kháng sinh trên 
đối với Acinetobacter baumannii(2,3,5,7,8,12,13,14,17,18,19). 
Việc tiến hành đề tài nghiên cứu “Khảo sát 
tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem / 
colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn 
Acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh 
viện” nhằm các mục tiêu: 
1. Đánh giá tình hình đề kháng hiện nay của 
Acinetobacter baumannii đối với imipenem, 
meropenem và colistin. 
2. Khảo sát các tác dụng phối hợp của các 
phối hợp kháng sinh imipenem/colistin, 
meropenem/colistin đối với Acinetobacter 
baumanni gây viêm phổi bệnh viện. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là các chủng Acinetobacter baumannii gây 
viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Nguyễn Tri 
Phương được chọn mẫu và xét nghiệm trong 
thời gian từ tháng 11/2013 đến tháng 05/2014. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các mẫu vi khuẩn Acinetobacter baumannii 
sau khi phân lập và định danh từ đàm và dịch 
hút phế quản của những bệnh nhân nội trú của 
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong thời gian từ 
tháng 11/2013 đến tháng 05/2014 được chẩn đoán 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 440
viêm phổi bệnh viện theo tiêu chuẩn chẩn đoán 
của ATS 2005. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Mẫu không được bảo quản đúng cách trong 
quá trình vận chuyển và định danh lại không 
phải Acinetobacter baumannii. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, phân tích. 
Định danh Acinetobacter baumannii bằng bộ định 
danh IDS14 GNR của Công ty Nam Khoa. Phân 
loại kháng, nhạy, trung gian với kháng sinh dựa 
theo tiêu chuẩn phân loại CLSI 2013. Đánh giá 
tác dụng phối hợp kháng sinh bằng phương 
pháp vi pha loãng trên khay 96 giếng và tính chỉ 
số FIC để kết luận phối hợp kháng sinh có tác 
dụng hiệp đồng, cộng lực, độc lập hay đối 
kháng. So sánh các tỷ lệ bằng các test thống kê. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tổng số chủng Acinetobacter baumannii thu 
thập được từ các mẫu đàm và dịch hút phế quản 
phù hợp với tiêu chuẩn chọn mẫu của nghiên 
cứu này là 85 chủng. 
Tính đề kháng của Acinetobacter 
baumannii đối với imipenem, meropenem, 
colistin 
Các chủng Acinetobacter baumannii kháng 
imipenem và meropenem với tỷ lệ rất cao (lần 
lượt là 91,76% và 94,12%), đồng thời chúng nhạy 
với colistin cũng với tỷ lệ rất cao (92,94%). 
91,76% chủng đề kháng đồng thời imipenem và 
meropenem. 
Các phối hợp imipenem/colistin và 
meropenem/colistin đều cho tác dụng hiệp đồng 
và cộng lực khá cao, tác dụng độc lập rất ít và 
không có tác dụng đối kháng. Khi xét riêng 
những chủng kháng imipenem hay meropenem 
thì các tỷ lệ tác dụng cũng tương tự. Như vậy 
tính chất đề kháng của Acinetobacter baumannii 
không ảnh hưởng đến kết quả phối hợp kháng 
sinh. So sánh giữa 2 phối hợp với nhau thì sự 
khác nhau không có ý nghĩa về mặt thống kê, tức 
là tác dụng của phối hợp imipenem/colistin và 
của phối hợp meropenem/colistin trên 
Acinetobacter baumannii là tương đương nhau. 
Các tác dụng phối hợp của colistin với 
imipenem hay meropenem 
32.94
58.82
8.24
45.88
51.76
2.36
0
20
40
60
80
100
Hiệp đồng Cộng lực Độc lập Đối khángBiểu đồ 1: Phân bố theo tỷ lệ % các kiểu tác dụng đối 
với Acinetobacter baumannii của hai phối hợp kháng 
sinh 
Tác dụng của colistin ở nồng độ thấp hơn 
MIC chuyển Acinetobacter baumannii từ 
không nhạy imipenem hay meropenem 
thành nhạy 
0 0 4.11
66.67
100
1.25
8.75
22.67
100 100
0
20
40
60
80
100
Imi/Col Mer/Col 
Biểu đồ 2: Phân bố theo tỷ lệ % các chủng 
Acinetobacter baumannii chuyển từ không nhạy 
imipenem hay meropenem thành nhạy khi có sự phối 
hợp với colistin ở các mức nồng độ thấp hơn MIC 
Colistin ở các nồng độ dưới MIC có khả năng 
chuyển các chủng Acinetobacter baumannii không 
nhạy imipenem hoặc meropenem thành nhạy. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 441
Cụ thể ở mức nồng độ 0,5µg/mL colistin, tỷ lệ 
chuyển chủng bắt đầu rõ rệt và tăng dần theo 
nồng độ colistin. Khi meropenem phối hợp 
colistin ở mức nồng độ 1µg/mL colistin, 100% 
các chủng Acinetobacter baumannii không nhạy 
meropenem đều chuyển thành nhạy. So sánh tác 
dụng chuyển chủng của imipenem/colistin với 
meropenem/colistin ở các mức nồng độ dưới 
MIC của colistin, thì ở nồng độ 0,5µg/mL colistin 
trở xuống thì sự khác nhau có ý nghĩa về mặt 
thống kê (α = 0,05); còn ở nồng độ từ 1µg/mL 
colistin trở lên thì sự khác nhau không có ý 
nghĩa về mặt thống kê. 
BÀN LUẬN 
Tính đề kháng của Acinetobacter baumannii 
Các chủng Acinetobacter baumannii trong 
nghiên cứu có tính đề kháng rất cao với 
imipenem (91,76%) và meropenem (94,12%), phù 
hợp với các nghiên cứu tương tự gần đây ở Việt 
Nam và nước ngoài(6,12,16). Một điểm đáng lưu ý là 
meropenem tuy được đưa vào điều trị sau 
imipenem nhưng tỷ lệ đề kháng của 
Acinetobacter baumannii đối với hai kháng sinh 
này hiện nay đã tương đương nhau. 
Kết quả này thống nhất với nhiều công trình 
nghiên cứu khác cả trong và ngoài nước(6,13,14,16). 
Một số nghiên cứu khác cho tỷ lệ đề kháng 
imipenem và meropenem thấp hơn một ít, từ 
60% đến 80%(4,8,10,11,14,15), có thể do khác biệt về dân 
số nghiên cứu và có thể là thời điểm nghiên cứu. 
Các chủng được đưa vào nghiên cứu này là 
những chủng được phân lập từ đàm và dịch hút 
phế quản của những bệnh nhân viêm phổi bệnh 
viện, là những chủng Acinetobacter baumannii đã 
được chứng minh là có tính kháng thuốc mạnh 
nhất(6,10,11). Ngoài ra, một số cuộc nghiên cứu đã 
được tiến hành cách nay tương đối đã lâu (2008 
trở về trước)(4,6,14), trong khi gần đây, Acinetobacter 
baumannii đang tăng rất nhanh tỷ lệ đề kháng 
với carbapenem(4,11,14). Về khả năng diệt khuẩn 
của colistin, kết quả này hoàn toàn thống nhất 
với tất cả các nghiên cứu trước đây là loại kháng 
sinh này còn rất hiệu quả với Acinetobacter 
baumannii trong cả in vitro lẫn in vivo, với tỷ lệ 
rất cao - trên 90%, và duy trì khả năng này qua 
nhiều năm(4,5,6,7,9,11,13,15,16). So sánh hoạt tính của 
từng loại thuốc đối với Acinetobacter baumannii 
thông qua giá trị MIC90, chúng tôi nhận thấy 
meropenem có hoạt tính mạnh hơn imipenem. 
Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Phạm 
Hùng Vân và nhóm MIDAS(14). Colistin cho hoạt 
tính mạnh nhất trong cả ba loại thuốc. Khi 
nghiên cứu về tính chất cùng kháng với nhiều 
loại thuốc, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ các chủng 
đề kháng cùng lúc với imipenem và meropenem 
đặc biệt cao, chiếm đại đa số trong số các chủng 
kháng imipenem hay meropenem. Kết quả này 
cũng tương đối phù hợp với một số nghiên cứu 
khác tại Việt Nam(12,14). 
Qua kết quả này, kết hợp với các công trình 
nghiên cứu tham khảo, có thể thấy xu hướng 
tăng dần tính đề kháng với carbapenem của 
Acinetobacter baumannii ở Việt Nam cũng như 
nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt trong vài năm 
gần đây(3,9,10,11,12,13,14,15,19). Đây thực sự là một thông 
tin đáng báo động buộc chúng ta phải thường 
xuyên theo dõi tình hình đề kháng kháng sinh 
của Acinetobacter baumannii cũng như quản lý 
việc sử dụng kháng sinh chặt chẽ hơn. 
Tác dụng hiệp đồng và cộng lực của colistin 
với imipenem hay meropenem đối với 
Acinetobacter baumannii 
Imipenem/colistin và meropenem/colistin 
đều cho các tác dụng phối hợp tốt - hiệp đồng 
hoặc cộng lực - đối với Acinetobacter baumannii 
với tỷ lệ rất cao, và không có tác dụng đối kháng. 
Một nghiên cứu của Ziad Daoud và cộng 
sự(5) với phương pháp tương tự cũng cho kết quả 
tương tự về tỷ lệ cộng lực và hiệp đồng của phối 
hợp meropenem/colistin. Ngược lại, với phối 
hợp imipenem/colistin, trong khi nghiên cứu của 
chúng tôi cho tỷ lệ cộng lực gấp đôi hiệp đồng 
thì nghiên cứu của Ziad Daoud cho tỷ lệ cộng 
lực áp đảo - gấp 8 lần. Tuy nhiên, do số mẫu của 
nghiên cứu trên khá ít (n=11) nên kết quả này có 
thể không mang tính đại diện cao. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 442
Một nghiên cứu tương tự khác của Alex van 
Belkum(18) mới được thực hiện cũng dùng kỹ 
thuật bàn cờ để đánh giá tác dụng phối hợp 
kháng sinh meropenem/colistin đối với 27 mẫu 
Acinetobacter baumannii đa kháng được thu thập 
từ một bệnh viện tại Thụy Sĩ, thì các phối hợp 
kháng sinh cũng không cho tác dụng đối kháng 
và độc lập, trong khi tỷ lệ hiệp đồng gấp đôi tỷ lệ 
cộng lực. Sự khác biệt giữa kết quả của chúng tôi 
với nghiên cứu này có thể là do sự khác biệt về 
tình trạng sử dụng kháng sinh giữa hai nơi thực 
hiện nghiên cứu dẫn đến khác biệt về tính nhạy 
cảm của Acinetobacter baumannii đối với 
meropenem. 
Một tham khảo đáng giá khác là công trình 
của Oren Zusman(19) đã tổng hợp kết quả từ rất 
nhiều công trình nghiên cứu và báo cáo khoa 
học từ năm 1987 đến 2013 về tác dụng hiệp 
đồng in vitro của các phối hợp kháng sinh 
giữa polymyxin với các kháng sinh thuộc 
nhóm carbapenem đối với các vi khuẩn Gram 
âm, thì kết quả cho thấy tỷ lệ hiệp đồng và 
cộng lực của các phối hợp tính chung – kể cả 
doripenem/colistin – đối với Acinetobacter 
baumannii khi phát hiện bằng kỹ thuật bàn cờ 
lần lượt là 32% và 39%, trong đó tỷ lệ hiệp 
đồng của các phối hợp chứa meropenem và 
doripenem là tương đương nhau. Khi sử dụng 
kỹ thuật theo dõi thời gian diệt khuẩn thì tỷ lệ 
hiệp đồng của các phối hợp trên là 77%. Như 
vậy, xét trên nhiều mặt, kết quả nghiên cứu 
của chúng tôi có nhiều điểm rất phù hợp với 
kết quả nghiên cứu này. 
Tác dụng chuyển chủng Acinetobacter 
baumannii từ không nhạy imipenem hay 
meropenem thành nhạy khi phối hợp với 
colistin 
Colistin có tác dụng chuyển các chủng 
Acinetobacter baumannii từ không nhạy 
imipenem hay meropenem thành nhạy ở các 
mức nồng độ dưới MIC của colistin. Kết quả 
này tương đối phù hợp với một nghiên cứu 
tương tự của Hsieh-Shong Leu(8) đối với phối 
hợp imipenem/colistin. Tuy nhiên, colistin 
trong nghiên cứu của chúng tôi cần có mức 
nồng độ cao hơn một bậc mới đạt được tỷ lệ 
chuyển đổi tương đương với nghiên cứu của 
tác giả Leu. Sự không đồng nhất này có thể là 
do nghiên cứu của tác giả Leu đã được thực 
hiện cách nay khá lâu (từ 1998 đến 2005) nên 
khi đó, tính đề kháng của Acinetobacter 
baumannii chưa ở mức cao như hiện nay. 
Riêng đối với phối hợp meropenem/colistin, 
cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu 
nghiên cứu nào xem xét về tác dụng chuyển 
đổi này nên không có điều kiện so sánh. 
Việc chứng minh colistin ở các hai nồng độ 
0,5µg/mL và 1µg/mL và dưới MIC có khả năng 
giúp chuyển đổi các chủng Acinetobacter 
baumannii từ không nhạy imipenem hay 
meropenem thành nhạy cũng rất có ý nghĩa về 
mặt thực tiễn vì đây là mức nồng độ mà colistin 
dễ dàng đạt được trong dịch cơ thể sau vài giờ 
điều trị với liều thông thường, có nghĩa là các 
phối hợp kháng sinh trên hứa hẹn mang lại hiệu 
quả điều trị cao và khả thi, đặc biệt là phối hợp 
meropenem/colistin. 
So sánh tác dụng của imipenem và 
meropenem trong các phối hợp với colistin 
đối với Acinetobacter baumannii. 
Trong nghiên cứu này, imipenem tương 
đương với meropenem trong việc tạo ra các tác 
dụng hiệp động hay cộng lực với colistin. Trong 
nghiên cứu của Oren Zusman(19), khi xét chung 
các kết quả được tiến hành bằng nhiều kỹ thuật – 
bàn cờ, Etest, theo dõi thời gian diệt khuẩn, thì tỷ 
lệ hiệp đồng của imipenem/colistin là 56% so với 
meropenem/colistin là 86% và tác giả đã chứng 
minh sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như 
vậy, sự khác biệt so với kết quả của chúng tôi có 
thể lý giải là do nghiên cứu của Oren Zusman 
được khảo sát trên một quãng thời gian khá dài – 
16 năm kể từ 1987 – nên tính đề kháng của 
Acinetobacter baumannii có sự biến động lớn, 
đồng thời tác giả tính chung cả kỹ thuật theo dõi 
thời gian diệt khuẩn là kỹ thuật đã được công 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 443
nhận là cho tỷ lệ hiệp đồng cao hơn và chính xác 
hơn(2,19). Ngoài ra, có một điểm cần lưu ý là kết 
quả của chúng tôi cũng cho các số liệu khá chênh 
lệch giữa tỷ lệ hiệp đồng của 
meropenem/colistin so với imipenem/colistin, 
trong đó meropenem có sự vượt trội hơn, tuy về 
mặt thống kê thì sự chênh lệch này không có ý 
nghĩa. Mặc dù vậy, điều này cũng gợi ý đến hai 
khả năng. Một là, theo thời gian, Acinetobacter 
baumannii đã thay đổi tính nhạy cảm đối với 
meropenem nên tác dụng của imipenem và tác 
dụng của meropenem đối với Acinetobacter 
baumannii không còn có sự khác biệt rõ rệt như 
trước. Hai là, do số mẫu trong nghiên cứu của 
chúng tôi khá khiêm tốn và chỉ thu thập từ một 
bệnh viện duy nhất nên chưa đủ sức làm rõ sự 
khác biệt có ý nghĩa giữa meropenem và 
imipenem. Như vậy, bất kể khả năng nào, chúng 
tôi thiết nghĩ một cuộc nghiên cứu tiếp theo quy 
mô hơn về vấn đề này là rất cần thiết. 
Về tác dụng chuyển các chủng, meropenem 
khi phối hợp với colistin ở các mức nồng độ từ 
0,5µg/mL trở xuống và dưới MIC đều cho các tỷ 
lệ chuyển đổi cao hơn imipenem một cách có ý 
nghĩa thống kê. Từ mức 1µg/mL colistin trở lên 
thì sự khác biệt giữa meropenem và imipenem 
không có ý nghĩa. Tuy nhiên, để tác dụng phối 
hợp có ý nghĩa, chúng tôi chỉ xét đến những phối 
hợp ở những mức nồng độ colistin dưới MIC. 
Do đó, số chủng được xét ở mức 1µg/mL trở lên 
rất ít – chỉ từ 7 chủng trở xuống – nên có thể 
chưa đủ để làm nổi bật sự khác nhau có ý nghĩa 
về mặt thống kê giữa meropenem và imipenem 
về mặt tác dụng này. Nhìn chung, ta có thể thấy 
meropenem có ưu thế hơn imipenem khi cùng 
với colistin làm cho các chủng Acinetobacter 
baumannii từ không nhạy thành nhạy với 
meropenem hay imipenem. 
Do chúng tôi không tìm thấy tài liệu nghiên 
cứu nào về tác dụng chuyển đổi chủng của phối 
hợp meropenem/colistin nên không có điều kiện 
kiểm chứng so sánh của chúng tôi về hai kháng 
sinh carbapenem này. 
Tuy nhiên, với những kết quả có được, cùng 
với các kết quả tương tự của các công trình 
nghiên cứu khác, chúng ta có thêm cơ sở để ưu 
tiên lựa chọn meropenem hơn là imipenem 
trong điều trị lâm sàng đối với Acinetobacter 
baumannii. 
Các kết quả trên đây là những thử nghiệm in 
vitro nên chỉ mang tính tham khảo cho việc lựa 
chọn kháng sinh điều trị. Chúng ta cũng cần có 
thêm những nghiên cứu tương tự về mặt lâm 
sàng để có thể khẳng định hiệu quả của giải 
pháp phối hợp giữa colistin với imipenem hay 
meropenem khi áp dụng vào điều trị cho bệnh 
nhân viêm phổi bệnh viện do Acinetobacter 
baumannii. 
KẾT LUẬN 
1. Acinetobacter baumannii có tỷ lệ đề kháng 
rất cao với imipenem (91,76%) và meropenem 
(94,12%). Acinetobacter baumannii vẫn còn rất 
nhạy cảm với colistin (92,94%). 
2. Colistin khi phối hợp với imipenem hay 
meropenem có khả năng tạo các tác dụng hiệp 
đồng với tỷ lệ cao (lần lượt là 32,94% và 45,88%) 
đối với Acinetobacter baumannii. 
3. Colistin khi phối hợp với imipenem hay 
meropenem có khả năng tạo các tác dụng cộng 
lực với tỷ lệ cao (lần lượt là 58,82% và 51,76%) 
đối với Acinetobacter baumannii. 
4. Colistin khi phối hợp với imipenem hay 
meropenem có khả năng chuyển các chủng 
không nhạy imipenem hay meropenem thành 
nhạy ở các nồng độ colistin dưới MIC có ý nghĩa 
về mặt lâm sàng. 
5. So sánh giữa imipenem và meropenem thì 
meropenem khi phối hợp với colistin cho tác 
dụng chuyển chủng từ không nhạy meropenem 
thành nhạy meropenem mạnh hơn tác dụng 
tương tự của phối hợp imipenem/colistin đối với 
Acinetobacter baumannii. Về tác dụng hiệp đồng 
và cộng lực thì trong nghiên cứu này không thấy 
có sự khác biệt giữa hai phối hợp kháng sinh. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 444
ĐỀ XUẤT 
Thường xuyên theo dõi tình hình đề kháng 
và đáp ứng điều trị của Acinetobacter baumannii, 
đặc biệt đối với colistin và carbapenem để có biện 
pháp đối phó kịp thời nhằm hạn chế làm gia tăng 
chủng đề kháng. 
Có thể sử dụng colistin phối hợp với 
imipenem hoặc meropenem để điều trị 
Acinetobacter baumannii, trong đó nên ưu tiên sử 
dụng meropenem hơn imipenem. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. American Thoracic Society (2005), “Guidelines for the 
management of adult with hospital required, ventilator-
associated, and healthcare-associated pneumonia 2004”, 
American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine, 171, 
pp. 388-416. 
2. Bonapace CR, White RL, Friedrich LV, Bosso JA (2000), 
“Evaluation of antibiotic synergy against Acinetobacter 
baumannii: a comparison with Etest, time-kill, and 
checkerboard methods”, Diagnostic Microbiology And Infectious 
Disease, 38 (1), pp.43-50. 
3. Cao Minh Nga, Nguyễn Thanh Bảo, Vũ Thị Kim Cương 
(2008), “Nhiễm khuẩn do Acinetobacter và tính kháng thuốc”, 
Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP.HCM, tập 12 (1), 
tr.188-193. 
4. Cao Xuân Minh, Cao Xuân Thục, Trần Văn Ngọc, Phạm 
Hùng Vân (2010), “Đặc điểm lâm sàng và mối liên quan giữa 
kiểu gen và tính kháng thuốc của vi khuẩn Acinetobacter 
baumannii trong viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Chợ 
Rẫy”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược TP.HCM, tập 14 
(1), tr. 128-134. 
5. Daoud Z, Mansour N, Masri K (2013), “Synergistic 
combination of carbapenems and colistin against P. aeruginosa 
and A. baumannii”, Open Journal of Medical Microbiology, 3 (4), 
pp.253-258. 
6. Dizbay M, Altuncekic A, Sezer BE, Ozdemir K, Arman D 
(2008), “Colistin and tigecycline susceptibility among 
multidrug-resistant Acinetobacter baumannii isolated from 
ventilator-associated pneumonia”, International Journal of 
Antimicrobial Agents, 32 (1), pp.29-32. 
7. Hsiang LC, Fen TY, Hui SL, Chih CC, Wei LJ (2008), 
“Antimicrobial effects of varied combinations of meropenem, 
sulbactam, and colistin on a multidrug-resistant Acinetobacter 
baumannii isolate that caused meningitis and bacteremia”, 
Microbial Drug Resistance, 14 (3), pp.233-237. 
8. Leu HS, Ye JJ, Lee MH, Su LH, Huang PY, Wu TL, Huang CT 
(2013), “Synergy of imipenem/colistin methanesulfonate 
combinations against imipenem-nonsusceptible multidrug-
resistant Acinetobacter baumannii”, Journal of Microbiology, 
Immunology and Infection, 47 (5), pp.406-411. 
9. Liang-Yu C, Chen KS, Yu LC, Syun LB, Ju HL, Tzu LY, Pei 
CC, Li CT, Phone FC (2011), “Difference in imipenem, 
meropenem, sulbactam, and colistin nonsusceptibility trends 
among three phenotypically undifferentiated Acinetobacter 
baumannii complex in a medical center in Taiwan, 1997-2007”, 
Journal of Microbiology, Immunology and Infection, 44, pp.358-
363. 
10. Necati Hakyemez I, Kucukbayrak A, Tas T, Burcu Yikilgan A, 
Akkaya A, Yasayacak A, Akdeniz H (2013), “Nosocomial 
Acinetobacter baumannii infections and changing antibiotic 
resistance”, Pakistan Journal of Medical Sciences, 29 (5), pp.1245-
1248. 
11. Nguyễn Phú Hương Lan, Nguyễn Văn Vĩnh Châu, Đinh 
Nguyễn Huy Mẫn, Lê Thị Dưng, Nguyễn Thị Thu Yến (2012), 
“Khảo sát mức độ đề kháng kháng sinh của Acinetobacter và 
Pseudomonas phân lập tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới năm 
2010”, Thời sự Y học, Hội Y học TP.HCM, (68), tr. 9-12. 
12. Nguyễn Sử Minh Tuyết, Nguyễn Thùy Trang, Trần Thị Hồng 
Ngọc, Nguyễn Thị Lệ (2009), “Khảo sát tính nhạy cảm đối với 
carbapenem của các vi khuẩn Gram âm gây nhiễm khuẩn 
bệnh viện bằng nồng độ ức chế tối thiểu của meropenem và 
imipenem tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”, Y học TP.Hồ 
Chí Minh, tập 13 (6), tr.301-304. 
13. Pongpech P, Amornnopparattanakul S, Panapakdee S, et al. 
(2010), “Antibacterial activity of carbapenem-based 
combinations againts multidrug-resistant Acinetobacter 
baumannii”, Journal of the Medical Association of Thailand, 93 (2), 
pp. 161-171. 
14. Phạm Hùng Vân, nhóm nghiên cứu MIDAS (2010), “Nghiên 
cứu đa trung tâm về tình hình đề kháng imipenem và 
meropenem của trực khuẩn Gram âm dễ mọc – Kết quả trên 
16 bệnh viện tại Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, Đại học Y 
Dược TP.HCM, tập 14 (2), tr. 280-286. 
15. Sieniawski K, Kaczka K, Rucinska M, Gagis L, Pomorski L 
(2013), “Acinetobacter baumannii nosocomial infections”, Polski 
Przeglad Chirurgiczny, 85 (9), pp.483-490. 
16. Somily AM, Absar MM, Arshad MZ, et al (2012), 
“Antimicrobial susceptibility patterns of multidrug-resistant 
Pseudomonas aeruginosa and Acinetobacter baumannii against 
carbapenems, colistin, and tigecycline”, Saudi Medical Journal, 
33 (7), pp.750-755. 
17. Sopirala MM, Mangino JE, Gebreyes WA, et al (2010), 
“Synergy testing by Etest, microdilution checkerboard, and 
time-kill methods for pan-drug-resistant Acinetobacter 
baumannii”, Antimicrobial Agents and Chemotherapy, 54 (11), 
pp. 4678-4683. 
18. Van Belkum A, Bonetti EJ, Cherkaoui A, et al (2014), 
“Meropenem/colistin synergy testing for multidrug-resistant 
Acinetobacter baumannii strains by a two-dimensional 
gradient technique applicable in routine microbiology”, 
Journal of Antimicrobial Chemotherapy, DOI: 
10.1093/jac/dku342. 
19. Zusman O, Avni T, Leibovici L, et al (2013), “Systematic 
review and meta-analysis of in vitro synergy of polymyxins 
and carbapenems”, Antimicrobial Agent and Chemotherapy, 57 
(10), pp. 5104-5111. 
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014 
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tac_dung_hiep_dong_in_vitro_cua_imipenemcolistin_va.pdf