Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM
Hiện nay, những dòng vi khuẩn thường gây
nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng bệnh viện
trên thế giới như: trực khuẩn đường ruột,
Acinetobacter baumannii và Pseudomonas
methicillin; Clostridium difficile; Enterococci đề
kháng Vancomycin(6). Trong nhóm vi khuẩn gây
bệnh, thì tác nhân được phân lập nhiều nhất là
trực khuẩn Gram âm. Một số nghiên cứu gần
đây cho thấy vi khuẩn Gram âm không lên men
đường gia tăng đề kháng làm xuất hiện các
chủng đa kháng thuốc với nhiều họ kháng sinh ở
nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt
Nam(1,4,14). Vì vậy, việc xác định được loài gây
bệnh trong nhiễm trùng bệnh viện cũng như
đánh giá mức độ đề kháng và tình trạng kháng
thuốc của chúng thường xuyên giữ vai trò quan
trọng trong sử dụng kháng sinh hợp lý nhằm cải
thiện tình trạng gia tăng đề kháng kháng sinh
hiện nay. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu “Khảo sát tác nhân và tính đề kháng
kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên men
đường tại bệnh viện đại học Y Dược thành phố từ
tháng 09/2013 đến tháng 03/2014”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 473 KHẢO SÁT TÁC NHÂN VÀ TÍNH ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA TRỰC KHUẨN GRAM ÂM KHÔNG LÊN MEN ĐƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HCM Trần Minh Anh Đào*, Nguyễn Thanh Bảo** TÓM TẮT Mở đầu: Trực khuẩn Gram âm không lên men đường là họ vi khuẩn thường tìm thấy trong môi trường, đặc biệt là đất và nước, với nhiều loại vi khuẩn khác nhau.Tình hình đề kháng kháng sinh được ghi nhận đang gia tăng. Việc xác định tỉ lệ từng loại vi khuẩn của nhóm này cũng như tình hình kháng thuốc của chúng là cần thiết góp phần chẩn đoán và điều trị hiệu quả. Mục tiêu: (1) xác định tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram âm không lên men đường,(2) tỉ lệ đề kháng kháng sinh của chúng và (3) đặc tính đề kháng kháng sinh của Acinetobacter spp. và Pseudomonas aeruginosa. Phương pháp: Tiền cứu-Mô tả cắt ngang. Thu thập, phân tích dữ liệu về định danh và kết quả kháng sinh đồ của trực khuẩn Gram âm không lên men đường phân lập được từ tất cả các mẫu bệnh phẩm dương tính với nhóm trực khuẩn này tại BV Đại học Y Dược từ tháng 09 năm 2013 đến tháng 03 năm 2014. Kết quả: Phân lập được 135 mẫu bệnh phẩm dương tính với nhóm trực khuẩn Gram âm không lên men đường từ các bệnh phẩm máu, đàm, mủ, nước tiểu, và các loại dịch tiết khác.Tỉ lệ các loài trực khuẩn Gram âm không lên men đường phân lập được: A. baumannii (32,6%), P. aeruginosa (28,1%), B. cepacia (22,2%), S. maltophilia (3,7%), Burkholderia pseudomallei (2,2%), Chryseobacterium meningosepticum (1,5%), và các vi khuẩn có cùng tỉ lệ 0,7% gồm Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas luteola, Brevundimonas vesicularis, Weeksella virosa. Tỉ lệ đề kháng của P. aeruginosa với Ticarcillin, Imipenem, Gentamicin (trên 30,0%), và các kháng sinh còn lại nhạy từ 75,0%-100%. Nhóm Acinetobacter spp. có tỉ lệ đề kháng cao hơn Pseudomonas aeruginosa, cụ thể A. baumannii kháng Ticarcillin, Aminoglycoside (trên 60,0%); kháng Cephalosporins (trừ Cefepime), Carbapenem, Polymyxin (trên 50,0% ); kháng Fluoroquinolone, Penicillins + ức chế β-lactamase, Trimethoprim-sulfomethoxazol (trên 40,0%). Acinetobacter spp. khác (A. haemolyticus, A. lwoffii) kháng Cefotaxime, Ceftriaxone, Meropenem (62,5%); kháng Ticarcillin, Ceftazidime, Gentamicin (trên 50,0%); kháng các kháng sinh còn lại (dưới 40.0%). Loài B. cepacia kháng Ticarcillin/A. clavulanic (trên 50%); kháng Meropenem, Ceftazidime (trên 30%), Chloramphenicol (3,3%), các sinh còn lại chưa bị đề kháng. Các vi khuẩn còn lại có số lượng chủng ít nên sự đề kháng chỉ mang tính chất tham khảo. Tỉ lệ P. aeruginosa đa kháng (13,2%). Acinetobacter spp. có tỉ lệ đa kháng kháng sinh cao hơn (48,1%), kháng diện rộng (17,3%). Kết luận: Cần sử dụng kháng sinh hợp lý trong điều trị nhiễm khuẩn do nhóm trực khuẩn Gram âm không lên men đường. Từ khóa: AmpC cảm ứng , Viện tiêu chuẩn về lâm sàng và phòng thí nghiệm, Sinh men beta-lactamase phổ rộng, đa kháng, Kháng toàn bộ, Kháng diện rộng * Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch ** Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: Trần Minh Anh Đào ĐT: 0903195457 Email: engio2005@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 474 ABSTRACT INVESTIGATION OF PATHOGEN AND ANTIBIOTIC RESISTANCE OF NON-FERMENTING GRAM- NEGATIVE BACILLI ISOLATED FROM UNIVERSITY MEDICAL CENTER HO CHI MINH CITY Tran Minh Anh Dao, Nguyen Thanh Bao. * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 473 - 479 Background: Non-fermenting Gram-negative bacillus is a family of bacteria commonly found in the environment, especially in soil and water with a variety non-fermenting Gram-negative bacilli. The antibiotic resistant resistance of non-fermenting Gram-negative bacilli are increasing. Thus, investigation of pathogen and antibiotic resistance of non-fermenting Gram-negative bacilli is needed help diagnostic and treatment. Objectives: (1) To find out the rates of each kind of non-fermenting Gram-negative bacilli,(2) their rates of antibiotic resistance and (3) the antibiotic resistant characteristics of Acinetobacter spp. and Pseudomonas aeruginosa. Method: The prospective study, descriptive and cross-sectional method was used. Data of the bacterial indentification and antibiogram results from all positive samples in University medical center of Ho Chi Minh City from September 2013 to March 2014were collected and analysed. Results: This study investigated on 135 positive samples of non-fermenting Gram-negative bacilli isolated from blood, sputum, pus, urine and other body fluids samples. The rates of A. baumannii is 32.6%, P. aeruginosa 28.1%, B. cepacia 22.2%, S. maltophilia 3.7%, Burkholderia pseudomallei 2.2%, Chryseobacterium meningosepticum 1.5%, and the same rates of non-fermenting Gram-negative strains 0.7%, included Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas luteola, Brevundimonas vesicularis, Weeksella virosa. The resistance rates of P. aeruginosa to Ticarcillin, Imipenem, Gentamicin are over 30.0%, and sensitive rates to other antimicrobial agentsare from 75.0% to 100%. The ability of drug resistance of Acinetobacter spp. is higher than Pseudomonas aeruginosa, for example, A. baumannii resistance rates to Ticarcillin, Aminoglycoside are over 60.0%; to Cephalosporins (except Cefepime), Carbapenem, Polymyxin are over 50.0%; to Fluoroquinolone, Penicillins+ inhibitor β-lactamase, Trimethoprim-sulfomethoxazol are over 40.0%. Another Acinetobacter spp. (A. haemolyticus, A. lwoffii) resistance rates to Cefotaxime, Ceftriaxone, Meropenem are 62.5%; to Ticarcillin, Ceftazidime, Gentamicinare over 50.0%; to other drugs are under 40.0%. Resistance rates of B. cepacia strain to Ticarcillin/A. clavulanicare over 50%; to Meropenem, Ceftazidimeare over upper 30%, to Chloramphenicol is 3.3%, and they are still sensitive to the other antimicrobial agents. S. maltophilia is foundresistant to Chloramphenicol (2 over 5 isolated strains), to Ceftazidime (1 over 5 isolated strains),and sensitive to other antimicrobial agents. Others non-fermenting Gram-negative bacilli were isolated with less number, so that resistance rates are referenced. P. aeruginosa is multidrug-resistant bacteria (MDR) (13.2%). Acinetobacter spp. has higher multidrug-resistant rates (48.1%), and the ability of extensively drug-resistance (XDR) (17.3%). Conclusion: A reasonable antibiotic use is required for treatment of non-fermenting Gram-negative bacilli. Key words: AmpC inducible, Analytical profile index Non-Enterobacteriaceae, Clinical and Laboratory Standards Institute, Extended-Spectrum β-lactamase, Multidrug-resistant, Pandrug-resistant, Extensively drug- resistant. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, những dòng vi khuẩn thường gây nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng bệnh viện trên thế giới như: trực khuẩn đường ruột, Acinetobacter baumannii và Pseudomonas aeruginosa đa kháng; Staphylococcus aureus kháng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 475 methicillin; Clostridium difficile; Enterococci đề kháng Vancomycin(6). Trong nhóm vi khuẩn gây bệnh, thì tác nhân được phân lập nhiều nhất là trực khuẩn Gram âm. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy vi khuẩn Gram âm không lên men đường gia tăng đề kháng làm xuất hiện các chủng đa kháng thuốc với nhiều họ kháng sinh ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam(1,4,14). Vì vậy, việc xác định được loài gây bệnh trong nhiễm trùng bệnh viện cũng như đánh giá mức độ đề kháng và tình trạng kháng thuốc của chúng thường xuyên giữ vai trò quan trọng trong sử dụng kháng sinh hợp lý nhằm cải thiện tình trạng gia tăng đề kháng kháng sinh hiện nay. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học Y Dược thành phố từ tháng 09/2013 đến tháng 03/2014”. Mục tiêu nghiên cứu Xác định (1) tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram âm không lên men đường, (2) tỉ lệ đề kháng kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên men đường, và (3) khảo sát đặc tính kháng kháng sinh của Acinetobacter spp., Pseudomonas aeruginosa. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Các chủng trực khuẩn Gram âm không lên men đường phân lập được ở tất cả các mẫu bệnh phẩm từ tháng 09/2013 đến tháng 03/2014 tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chọn mẫu Thời gian và đối tượng nghiên cứu như trên. Các bệnh phẩm này được cấy phân lập, định danh bằng phương pháp thông thường và Api20NE, kháng sinh đồ để xác định tỉ lệ trực khuẩn Gram âm không lên men đường được phân lập và sự đề kháng kháng sinh của chúng (trừ những mẫu bệnh phẩm được cấy 2 lần). Đối với các bệnh phẩm tạp nhiễm, chỉ chọn vi khuẩn phân lập từ các bệnh phẩm có giá trị và dựa vào tiêu chuẩn lấy vào, với bệnh phẩm đàm phải được đánh giá có lượng bạch cầu trên 25 và biểu mô dưới 10 quan sát trên quang trường x100, bệnh phẩm nước tiểu với số lượng vi khuẩn cấy được từ 105 CFU/ml trở lên. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang. Phương pháp tiến hành Phân lập và định danh vi khuẩn gây bệnh theo phương pháp thông thường với môi trường phân lập và phong phú (EMB, BA), oxidase, môi trường chẩn đoán (TSI), môi trường làm kháng sinh đồ (MHA-Mueller-Hinton Agar) của hãng Bio-Rad, và bộ định danh API 20NE của hãng Bio-Merieux (Pháp). Kháng sinh đồ: Thực hiện phương pháp khuếch tán trên thạch Kirby–Bauer với đĩa kháng sinh của hãng ABTECK (Anh). Phương pháp MIC với E-test hãng Bio-Merieux (Pháp). Thu thập và nhập dữ liệu vào mẫu “Phiếu nghiên cứu: của các trực khuẩn Gram âm không lên men đường. Xử lý và phân tích kết quả bằng phần mềm SPSS 22.0 theo hướng thống kê mô tả. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tỉ lệ phân bố trực khuẩn Gram âm không lên men đường Các vi khuẩn được phân lập từ 135 mẫu dương tính với trực khuẩn Gram âm không lên men đường từ các loại bệnh phẩm khác nhau, bao gồm bệnh phẩm máu chiếm tỉ lệ cao nhất 35,6% (48/135), đàm 34,1% (46/135), mủ 16,3% (22/135), nước tiểu 6,6% (9/135), dịch 7,4% (10/135) (tinh dịch, dịch vết thương, dịch màng bụng, dịch màng phổi). Các vi khuẩn được phân lập từ các mẫu bệnh phẩm được thống kê ở bảng 1, và tỉ lệ loài trực khuẩn Gram âm không lên men đường phân lập được ở bảng 2 cho kết quả Acinetobacter baumannii chiếm tỉ lệ cao nhất (32,6%), kế đến Pseudomonas aeruginosa (28,1%), Burkholderia cepacia (22,2%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 476 Bảng 1: Tỉ lệ phân bố giữa bệnh phẩm và trực khuẩn Gram âm không lên men đường Bệnh phẩm P. aeruginosa (n=38) Acinetobacter spp. B. cepacia (n=30) S. maltophilia (n=5) Nhóm khác (n=10) Tổng (n=135) Máu 1 (2,1%) 20 (41,6%) 23 (47,9%) 2 (4,2%) 2 (4,2%) 48 (100,0%) Đàm 18 (39,1%) 20 (43,5%) 4 (8,7%) 1 (2,2%) 3 (6,5%) 46 (100,0%) Mủ 6 (27,3%) 7 (31,8%) 3 (13,6%) 2 (9,1%) 4) (18,2%) 22 (100,0%) Nước tiểu 7 (77,8%) 2 (22,2%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 9 (100,0%) Các loại dịch 6 (60,0%) 3 (30,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 1 (10,0%) 10 (100,0%) Bảng 2: Tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram âm không lên men đường Định danh loài Số lượng (n) Tỉ lệ (%) Acinetobacter spp. Acinetobacter baumannii 44 32,6 Acinetobacter haemolyticus 3 2,2 Acinetobacter lwoffii 5 3,7 Pseudomonas aeruginosa Pseudomonas aeruginosa 38 28,1 Burkholderia cepacia Burkholderia cepacia 30 22,2 S. maltophilia Stenotrophomonas maltophilia 5 3,7 Nhóm khác Burkholderia pseudomallei 3 2,2 Chryseobacterium meningosepticum 2 1,5 Pseudomonas alcaligens 1 0,7 Pseudomonas fluorescens 1 0,7 Pseudomonas luteola 1 0,7 Brevundimonas vesicularis 1 0,7 Weeksella virosa 1 0,7 Tổng 135 100,0 Tỉ lệ đề kháng của trực khuẩn Gram âm không lên men đường Biểu đồ 1: Tỉ lệ đề kháng của Pseudomonas aeruginosa (n=38) Biểu đồ 2: Tỉ lệ đề kháng của Acinetobacter baumannii (n=44) Biểu đồ 3: Tỉ lệ đề kháng kháng sinh của Burkholderia cepacia (n=30) Các trực khuẩn Gram âm không lên men đường khác, có chủng phân lập được rất ít, nên tỉ lệ đề kháng của chúng chỉ mang tính chất tham khảo. Cụ thể như, Stenotrophomonas maltophilia có 2/5 chủng đề kháng với Chloramphenicol, 1/5 chủng đề kháng với Ceftazidime, các kháng sinh còn lại chưa xuất hiện chủng đề kháng. Đối với các trực khuẩn Gram âm không lên men đường khác kháng Colistin (7 chủng), kháng Cefepime và Cefotaxime Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 477 (6 chủng), kháng Ceftriaxone, Imipenem và Gentamicin (5 chủng), kháng Tetracycline (3 chủng), kháng Ceftazidime (2 chủng). Tình trạng đề kháng của trực khuẩn Gram âm không lên men đường Biểu đồ 4: Tỉ lệ đa kháng kháng sinh của P. aeruginosa (n=5) Biểu đồ 5: Tỉ lệ đa kháng kháng sinh và kháng diện rộng của Acinetobacter spp. (nMDR=25, nXDR=9) BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở bảng 1 và bảng 2 tỉ lệ nhiễm Acinetobacter baumannii và Pseudomonas aeruginosa chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhiễm khuẩn hô hấp, đều này cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu khác ở trên thế giới(13,4) cũng như ở Việt Nam(11,2). Tỉ lệ phân bố trực khuẩn Gram âm không lên men của chúng tôi có sự chênh lệch với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước. Cụ thể, Acinetobacter baumannii trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu Iain Abbott khu vực Châu Á Thái Bình Dương(7), nghiên cứu Bùi Nghĩa Thịnh tại BV Cấp cứu Trưng Vương (2010)(2). Nhưng thấp hơn nghiên cứu của của Nass T. ở Ấn Độ(8), nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan ở BV Bệnh Nhiệt Đới (2010)(11), Phạm Hùng Vân và nhóm Midas (16 BV năm 2010)(14), nhưng có tỉ lệ cao hơn so với các nghiên cứu ở khu vực phía Bắc - BV Bỏng Quốc Gia(7), ở miền Trung – BV Trung Ương Huế(18). Đối với trực khuẩn Pseudomonas aeruginosa trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ(9), một số nghiên cứu khác ở trong nước(4,18,14,2), nhưng thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan- Bv bệnh Nhiệt Đới(11), Nguyễn Như Lâm - Viện Bỏng(7). Sự khác biệt này có thể do sự kiểm soát nhiễm trùng ở từng nước và cơ sở y tế, đối tượng bệnh nhân (thở máy, suy giảm miễm dịch, bỏng,), mẫu nghiên cứu, thời gian, cũng như đặc tính vi khuẩn đặc trưng ở mỗi cơ sở y tế(2). Với tác nhân gây bệnh khác trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ Burkholderia cepacia trong bệnh phẩm máu chiếm tỉ lệ cao nhất so với Acinetobacter baumannii, Pseudomonas aeruginosa cũng như các bệnh phẩm khác, đây cũng là điểm khác biệt trong nghiên cứu của chúng tôi so với các nghiên cứu khác(4,17), vì nghiên cứu của chúng tôi chỉ phân lập và định danh nhóm trực khuẩn Gram âm không lên men đường, trong đó bệnh phẩm máu với tỉ lệ cao nhất là Burkholderia cepacia. Nhưng ngược lại, có nghiên cứu khác của Trần Minh Giao tiến hành tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định vào thời gian tháng 06/2008 đến tháng 05/2009(13), và nghiên cứu của Phạm Hùng Vân cùng nhóm Midas(14) thực hiện tại 16 bệnh viện trên cả nước trong thời gian từ 05/2008 đến tháng 11/2009 đều có 45 trường hợp nhiễm, trong khi nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được 30 trường hợp trong 7 tháng. Tỉ lệ nhiễm Stenotrophomonas maltophilia trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Huỳnh Văn Bình và cộng sự tại BV Nhân Dân Gia Định(5), và gần tương đồng với nghiên cứu của Trần Văn Sĩ thực hiện tại BV Đa Khoa Kiên Giang trong 10 tháng đầu năm 2012(17). Về mức độ đề kháng của chủng Pseudomonas aeruginosa trong nghiên cứu của chúng tôi còn nhạy với nhiều kháng sinh. Đây cũng là sự khác biệt so với các nghiên cứu khác ở trên thế giới và Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 478 Việt Nam. Trong đó, có trên 30% chủng đề kháng với Ticarcillin, Imipenem, Gentamicin; Các kháng sinh khác có tỉ lệ kháng dao động từ 5,3% đến 21,1%, riêng kháng sinh nhóm Polymyxins chưa xuất hiện chủng đề kháng và các nghiên cứu INICC (International Nosocomial Infection Control Consortium), MYSTIC (Meropenem Yearly Susceptibility Test Information Collection), ủng hộ cho nghiên cứu của chúng tôi về sự nhạy cảm kháng sinh còn tương đối cao ở chủng Pseudomonas aeruginosa(19), trong khi những nghiên cứu khác ở Việt Nam có tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao(2,4,1,14). Riêng Imipenem có tỉ lệ đề kháng cao hơn các kháng sinh khác, và tỉ lệ đề kháng Imipenem cao cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan(11), Phạm Hùng Vân và Nhóm Midas(14). Sự khác biệt này có thể do chất lượng chăm sóc y tế, sử dụng kháng sinh cũng như tình hình nhiễm trùng bệnh viện ở mỗi cơ sở y tế khác nhau(8). Tuy vẫn còn nhạy cảm cao với kháng sinh, nhưng có chủng Pseudomonas aeruginosa đa kháng (MDR) với các nhóm kháng sinh dao động từ 5,3% đến 10,5% (ngoại trừ chưa xuất hiện chủng đa kháng với Polymyxin, Meropenem và Ticarcillin/ A. clavulanic), các nghiên cứu khác ủng hộ sự đa kháng của chủng Pseudomonas aeruginosa ngày càng gia tăng(2,4). Đối với Acinetobacter baumannii và Acinetobacter spp. khác thể hiện tính kháng thuốc cao hơn Pseudomonas aeruginosa và đề kháng với nhiều nhóm kháng sinh đối với Acinetobacter baumannii ( 38,6% - 81,9%), Acinetobacter spp. khác (12,5%-62,5%), điều này cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu khác ở Việt Nam như Huỳnh Văn Bình (BV Nhân Dân Gia Định) - 2006(5) có sự đề kháng nhóm cephalosporins phổ rộng từ 45,5% đến 65,9%. Đối với kháng sinh nhóm cabapenem, nhóm ức chế con đường chuyển hóa Folate (Folate pathway inhibitors) (Trimethoprim-sulfamethoxazol), Antipseudomonal fluoroquinolones (Ciprofloxacin, Levofloxacin) tỉ lệ đề kháng tăng cao từ 50% trở lên tương tự như nghiên cứu của Bùi Nghĩa Thịnh - BV Cấp Cứu Trưng Vương(2), trong nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan- BV Bệnh Nhiệt Đới(11). Trong nghiên cứu chúng tôi đặc biệt ghi nhận xuất hiện chủng đề kháng cao với Colistin (59,1% đối với Acinetobacter baumannii và 37,5% Acinetobacter spp. khác). Và tỉ lệ Acinetobacter spp. đa kháng (MDR) và kháng diện rộng (XDR) lần lượt là 48,1% và 17,3%. Tỉ lệ này khá cao, đưa đến tỉ lệ kháng thuốc của chủng đa kháng (MDR) với các nhóm kháng sinh cao từ 15,4% đến 44,2% (biểu đồ 5) (trong đó có 30,8% chủng đề kháng với Colistin), Sự xuất hiện đa kháng của chủng Acinetobacter spp. nói chung và Acinetobacter baumannii trong các nghiên cứu khác trên thế giới như: MYSTIC (Châu Âu-2006)(19) và nghiên cứu của GARP-VN (thực hiện ở 16 bệnh viện trên toàn quốc)(1) có tỉ lệ kháng các kháng sinh cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Ngoại trừ chủng Acinetobacter spp. trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác, có thể do đặc điểm vi khuẩn, cũng như tình hình nhiễm khuẩn và điều trị ở mỗi cơ sở và thời điểm nghiên cứu khác nhau. Ở nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ chủng Acinetobacter spp. kháng diện rộng (XDR) cao chiếm 17,3% (9/52) với tất cả kháng sinh. Các nghiên cứu khác ở trong nước chúng tôi không ghi nhận tỉ lệ kháng toàn bộ, nhưng sự đề kháng diện rộng (XDR) của chủng Pseudomonas aeruginosa và Acinetobacter baumannii được ghi nhận trong một số nghiên cứu của Việt Nam của Phạm Hùng Vân và cộng sự (2009)(14). Những trực khuẩn Gram âm không lên men đường còn lại vì số chủng phân lập được ít nên chỉ có giá trị tham khảo. KẾT LUẬN Qua đề tài nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược, ghi nhận A. baumannii (32,6%), P. aeruginosa (28,1%), B. cepacia (22,2%), S. maltophilia (3,7%), Burkholderia pseudomallei (2,2%), Chryseobacterium meningosepticum (1,5%), và các vi khuẩn có cùng tỉ lệ 0,7% gồm Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 479 Pseudomonas luteola, Brevundimonas vesicularis, Weeksella virosa. Về tỉ lệ đề kháng thì Pseudomonas aeruginosa còn nhạy cảm với nhiều kháng sinh, những kháng sinh nhóm Polymyxin, Meropenem và Ticarcillin/ A. clavulanic chưa xuất hiện chủng đề kháng. Ngược lại, Acinetobacter spp. đề kháng cao với nhiều nhóm kháng sinh dao động từ 25,0% đến 81,9% , cùng với sự xuất hiện các chủng đa kháng và kháng diện rộng, đặc biệt là tỉ lệ đề kháng với Colistin cao. Burkholderia cepacia có tỉ lệ kháng cao nhất với Ticarcillin/A. clavulanic (56,6%), kháng Meropenem và Ceftazidime chiếm lần lượt là 36,7% và 33,3%, những kháng sinh còn lại chưa xuất hiện chủng đề kháng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế và GARP-VN (2009), “Báo cáo sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam năm 2008 – 2009” <<URL: cao su dung khang sinh va khang khang sinh tai 15 benh vien nam 2008-2009.pdf>> 2. Bùi Nghĩa Thịnh, Nguyễn Hồng Trường và cộng sự (2010), “Khảo sát tình hình đề kháng kháng sinh của vi khuẩn tại khoa hồi sức tích cực và chống độc Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương”, Hội nghị khoa học kỹ thuật Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương năm 2010. 3. CDC (2013), “Antibiotic resistance threats in the United States”, 2013 Section 3: Current Antibiotic Resistance Threats in the United States, by Microorganism page 59, 69. 4. Hujer KM, Hujer AM, Hulten EA, et al. (2006), “Analysis of antibiotic resistance genes in multidrug-resistant Acinetobacter spp. isolates from military and civilian patients treated at the Walter Reed Army Medical Center”, Antimicrob Agents Chemother 2006;50:4114-23. 5. Huỳnh Văn Bình và cộng sự (2009), “Khảo sát tình hình viêm phổi bệnh nhân sau mổ có thở máy tại khoa phẫu thuật gây mê hồi sức – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 13, số 6: 208 – 216. 6. Kiratisin P, et al. (2012), “Hospital acquired infection”, Intl J Antimicr Agents 39:311-16. 7. Livermore DM (2002). “Multiple mechanisms of antimicrobial resistance in Pseudomonas aeruginosa: our worst nightmare?”, Clin. Infect. Dis. 34(5), 634–640. 8. Naas T, et al (2005). “Outbreak of Carbapenem-Resistant Acinetobacter baumannii Producing the Carbapenemase OXA- 23 in a Tertiary Care Hospital of Papeete, French Polynesia”, Journal of Clinical Microbiology, vol 43 (9): 4826-4829. 9. Neuhauser MM, Weinstein RA, Rydman R, Danziger LH, Karam G, Quinn JP, (2003) “Antibiotic resistance among gram-negative bacilli in U.S. intensive care units: implications for fluoroquinolone use”, JAMA 2003;289:885-8. 10. Nguyễn Như Lâm, Lê Đức Mẫn (2010), “Nghiên cứu căn nguyên nhiễm khuẩn và mức độ kháng kháng sinh tại khoa hồi sức cấp cứu – Viện bỏng quốc gia”, Tạp chí y học Tp. Hồ Chí Minh Tập 14 Phụ bản số 2, năm 2010. 11. Nguyễn Phú Hương Lan và cộng sự (2012), “Khảo sát mức độ đề kháng kháng sinh của Acinetobacter và Pseudomonas phân lập tại bệnh viện Nhiệt Đới năm 2010”, Thời sự Y học -Hội Y học Tp. Hồ Chí Minh, số 68: 9-12. 12. Nguyễn Thanh Bảo, Cao Minh Nga (2010), “Chọn lựa kháng sinh ban đầu trong điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện TP. HCM- 2009-2010”, đề tài cấp Sở Khoa học & Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. 13. Nicasio AM, Kuti JL, Nicolau DP (2008), “The Current State of Multidrug-Resistant Gram-Negative Bacilli in North America”, Pharmacotherapy.28(5): 235-249 14. Phạm Hùng Vân và Nhóm nghiên cứu Midas (2009), “Nghiên cứu đa trung tâm về tình hình đề kháng kháng sinh của trực trùng Gram âm dễ mọc kết quả trên 16 bệnh viện tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu của Hội hô hấp TP. Hồ Chí Minh, tr: 1-7. <<URL: bapenenR_total_TSPhamHungVan.pdf>> 15. Phạm Thị Ngọc Thảo (2010), “Đặc điểm bệnh nhân nhiễmkhuẩn huyết điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy”, Y Hoc TP. Hồ Chí Minh, Tập 14 Phụ bản số 2 - 2010: 348 – 352. 16. Trần Minh Giang (2009), “Khảo sát đặc điểm nhiễm Burkholderia cepacia tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”. Y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 13, số 6, tr: 113 – 119. 17. Trần Văn Sĩ và cộng sự (2013), “Khảo sát tình hình vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết tại bệnh viện Đa Khoa Kiên Giang”, Tạp chí y học thực hành <<URL: hinh-vi-khuan-gay-nhiem-khuan-huyet-tai-benh-vien-da- khoa-kien-giang_t4160.aspx.>> 18. Trương Diên Hải và cộng sự (2012), “Nghiên cứu căn nguyên vi khuẩn hiếu khí gây nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 05/2011 đến tháng 05/2012”. Tạp chí y dược học, số 11, tr: 100 – 108. 19. Turner PJ (2008). “Meropenem activity against European isolates report on the MYSTIC (Meropenem Yearly Susceptibility Test Information Collection) 2006 results. Diagn Microbiol Infect Dis. 60(5):185-92. Ngày nhận bài báo: 27/10/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
File đính kèm:
- khao_sat_tac_nhan_va_tinh_de_khang_khang_sinh_cua_truc_khuan.pdf