Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM

Hiện nay, những dòng vi khuẩn thường gây

nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng bệnh viện

trên thế giới như: trực khuẩn đường ruột,

Acinetobacter baumannii và Pseudomonas

methicillin; Clostridium difficile; Enterococci đề

kháng Vancomycin(6). Trong nhóm vi khuẩn gây

bệnh, thì tác nhân được phân lập nhiều nhất là

trực khuẩn Gram âm. Một số nghiên cứu gần

đây cho thấy vi khuẩn Gram âm không lên men

đường gia tăng đề kháng làm xuất hiện các

chủng đa kháng thuốc với nhiều họ kháng sinh ở

nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt

Nam(1,4,14). Vì vậy, việc xác định được loài gây

bệnh trong nhiễm trùng bệnh viện cũng như

đánh giá mức độ đề kháng và tình trạng kháng

thuốc của chúng thường xuyên giữ vai trò quan

trọng trong sử dụng kháng sinh hợp lý nhằm cải

thiện tình trạng gia tăng đề kháng kháng sinh

hiện nay. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài

nghiên cứu “Khảo sát tác nhân và tính đề kháng

kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên men

đường tại bệnh viện đại học Y Dược thành phố từ

tháng 09/2013 đến tháng 03/2014”

pdf 7 trang dienloan 2720
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM

Khảo sát tác nhân và tính đề kháng kháng sinh của trực khuẩn gram âm không lên men đường tại bệnh viện đại học y dược Tp. HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 473
KHẢO SÁT TÁC NHÂN VÀ TÍNH ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH 
CỦA TRỰC KHUẨN GRAM ÂM KHÔNG LÊN MEN ĐƯỜNG 
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HCM 
Trần Minh Anh Đào*, Nguyễn Thanh Bảo** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Trực khuẩn Gram âm không lên men đường là họ vi khuẩn thường tìm thấy trong môi trường, đặc 
biệt là đất và nước, với nhiều loại vi khuẩn khác nhau.Tình hình đề kháng kháng sinh được ghi nhận đang gia 
tăng. Việc xác định tỉ lệ từng loại vi khuẩn của nhóm này cũng như tình hình kháng thuốc của chúng là cần thiết 
góp phần chẩn đoán và điều trị hiệu quả. 
Mục tiêu: (1) xác định tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram âm không lên men đường,(2) tỉ lệ đề kháng kháng 
sinh của chúng và (3) đặc tính đề kháng kháng sinh của Acinetobacter spp. và Pseudomonas aeruginosa. 
Phương pháp: Tiền cứu-Mô tả cắt ngang. Thu thập, phân tích dữ liệu về định danh và kết quả kháng sinh 
đồ của trực khuẩn Gram âm không lên men đường phân lập được từ tất cả các mẫu bệnh phẩm dương tính với 
nhóm trực khuẩn này tại BV Đại học Y Dược từ tháng 09 năm 2013 đến tháng 03 năm 2014. 
Kết quả: Phân lập được 135 mẫu bệnh phẩm dương tính với nhóm trực khuẩn Gram âm không lên men 
đường từ các bệnh phẩm máu, đàm, mủ, nước tiểu, và các loại dịch tiết khác.Tỉ lệ các loài trực khuẩn Gram âm 
không lên men đường phân lập được: A. baumannii (32,6%), P. aeruginosa (28,1%), B. cepacia (22,2%), S. 
maltophilia (3,7%), Burkholderia pseudomallei (2,2%), Chryseobacterium meningosepticum (1,5%), và các vi 
khuẩn có cùng tỉ lệ 0,7% gồm Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas luteola, 
Brevundimonas vesicularis, Weeksella virosa. Tỉ lệ đề kháng của P. aeruginosa với Ticarcillin, Imipenem, 
Gentamicin (trên 30,0%), và các kháng sinh còn lại nhạy từ 75,0%-100%. Nhóm Acinetobacter spp. có tỉ lệ đề 
kháng cao hơn Pseudomonas aeruginosa, cụ thể A. baumannii kháng Ticarcillin, Aminoglycoside (trên 60,0%); 
kháng Cephalosporins (trừ Cefepime), Carbapenem, Polymyxin (trên 50,0% ); kháng Fluoroquinolone, Penicillins 
+ ức chế β-lactamase, Trimethoprim-sulfomethoxazol (trên 40,0%). Acinetobacter spp. khác (A. haemolyticus, A. 
lwoffii) kháng Cefotaxime, Ceftriaxone, Meropenem (62,5%); kháng Ticarcillin, Ceftazidime, Gentamicin (trên 
50,0%); kháng các kháng sinh còn lại (dưới 40.0%). Loài B. cepacia kháng Ticarcillin/A. clavulanic (trên 50%); 
kháng Meropenem, Ceftazidime (trên 30%), Chloramphenicol (3,3%), các sinh còn lại chưa bị đề kháng. Các vi 
khuẩn còn lại có số lượng chủng ít nên sự đề kháng chỉ mang tính chất tham khảo. Tỉ lệ P. aeruginosa đa kháng 
(13,2%). Acinetobacter spp. có tỉ lệ đa kháng kháng sinh cao hơn (48,1%), kháng diện rộng (17,3%). 
Kết luận: Cần sử dụng kháng sinh hợp lý trong điều trị nhiễm khuẩn do nhóm trực khuẩn Gram âm không 
lên men đường. 
Từ khóa: AmpC cảm ứng , Viện tiêu chuẩn về lâm sàng và phòng thí nghiệm, Sinh men beta-lactamase phổ 
rộng, đa kháng, Kháng toàn bộ, Kháng diện rộng 
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch ** Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Trần Minh Anh Đào ĐT: 0903195457 Email: engio2005@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 474
ABSTRACT 
INVESTIGATION OF PATHOGEN AND ANTIBIOTIC RESISTANCE OF NON-FERMENTING GRAM-
NEGATIVE BACILLI ISOLATED FROM UNIVERSITY MEDICAL CENTER HO CHI MINH CITY 
Tran Minh Anh Dao, Nguyen Thanh Bao. 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 473 - 479 
Background: Non-fermenting Gram-negative bacillus is a family of bacteria commonly found in the 
environment, especially in soil and water with a variety non-fermenting Gram-negative bacilli. The antibiotic 
resistant resistance of non-fermenting Gram-negative bacilli are increasing. Thus, investigation of pathogen and 
antibiotic resistance of non-fermenting Gram-negative bacilli is needed help diagnostic and treatment. 
Objectives: (1) To find out the rates of each kind of non-fermenting Gram-negative bacilli,(2) their rates of 
antibiotic resistance and (3) the antibiotic resistant characteristics of Acinetobacter spp. and Pseudomonas 
aeruginosa. 
Method: The prospective study, descriptive and cross-sectional method was used. Data of the bacterial 
indentification and antibiogram results from all positive samples in University medical center of Ho Chi Minh 
City from September 2013 to March 2014were collected and analysed. 
Results: This study investigated on 135 positive samples of non-fermenting Gram-negative bacilli isolated 
from blood, sputum, pus, urine and other body fluids samples. The rates of A. baumannii is 32.6%, P. aeruginosa 
28.1%, B. cepacia 22.2%, S. maltophilia 3.7%, Burkholderia pseudomallei 2.2%, Chryseobacterium 
meningosepticum 1.5%, and the same rates of non-fermenting Gram-negative strains 0.7%, included 
Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas luteola, Brevundimonas vesicularis, Weeksella 
virosa. The resistance rates of P. aeruginosa to Ticarcillin, Imipenem, Gentamicin are over 30.0%, and sensitive 
rates to other antimicrobial agentsare from 75.0% to 100%. The ability of drug resistance of Acinetobacter spp. is 
higher than Pseudomonas aeruginosa, for example, A. baumannii resistance rates to Ticarcillin, Aminoglycoside 
are over 60.0%; to Cephalosporins (except Cefepime), Carbapenem, Polymyxin are over 50.0%; to 
Fluoroquinolone, Penicillins+ inhibitor β-lactamase, Trimethoprim-sulfomethoxazol are over 40.0%. Another 
Acinetobacter spp. (A. haemolyticus, A. lwoffii) resistance rates to Cefotaxime, Ceftriaxone, Meropenem are 
62.5%; to Ticarcillin, Ceftazidime, Gentamicinare over 50.0%; to other drugs are under 40.0%. Resistance rates 
of B. cepacia strain to Ticarcillin/A. clavulanicare over 50%; to Meropenem, Ceftazidimeare over upper 30%, to 
Chloramphenicol is 3.3%, and they are still sensitive to the other antimicrobial agents. S. maltophilia is 
foundresistant to Chloramphenicol (2 over 5 isolated strains), to Ceftazidime (1 over 5 isolated strains),and 
sensitive to other antimicrobial agents. Others non-fermenting Gram-negative bacilli were isolated with less 
number, so that resistance rates are referenced. P. aeruginosa is multidrug-resistant bacteria (MDR) (13.2%). 
Acinetobacter spp. has higher multidrug-resistant rates (48.1%), and the ability of extensively drug-resistance 
(XDR) (17.3%). 
Conclusion: A reasonable antibiotic use is required for treatment of non-fermenting Gram-negative bacilli. 
Key words: AmpC inducible, Analytical profile index Non-Enterobacteriaceae, Clinical and Laboratory 
Standards Institute, Extended-Spectrum β-lactamase, Multidrug-resistant, Pandrug-resistant, Extensively drug-
resistant. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, những dòng vi khuẩn thường gây 
nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng bệnh viện 
trên thế giới như: trực khuẩn đường ruột, 
Acinetobacter baumannii và Pseudomonas 
aeruginosa đa kháng; Staphylococcus aureus kháng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 475
methicillin; Clostridium difficile; Enterococci đề 
kháng Vancomycin(6). Trong nhóm vi khuẩn gây 
bệnh, thì tác nhân được phân lập nhiều nhất là 
trực khuẩn Gram âm. Một số nghiên cứu gần 
đây cho thấy vi khuẩn Gram âm không lên men 
đường gia tăng đề kháng làm xuất hiện các 
chủng đa kháng thuốc với nhiều họ kháng sinh ở 
nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt 
Nam(1,4,14). Vì vậy, việc xác định được loài gây 
bệnh trong nhiễm trùng bệnh viện cũng như 
đánh giá mức độ đề kháng và tình trạng kháng 
thuốc của chúng thường xuyên giữ vai trò quan 
trọng trong sử dụng kháng sinh hợp lý nhằm cải 
thiện tình trạng gia tăng đề kháng kháng sinh 
hiện nay. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài 
nghiên cứu “Khảo sát tác nhân và tính đề kháng 
kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên men 
đường tại bệnh viện đại học Y Dược thành phố từ 
tháng 09/2013 đến tháng 03/2014”. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định (1) tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram 
âm không lên men đường, (2) tỉ lệ đề kháng 
kháng sinh của trực khuẩn Gram âm không lên 
men đường, và (3) khảo sát đặc tính kháng 
kháng sinh của Acinetobacter spp., 
Pseudomonas aeruginosa. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các chủng trực khuẩn Gram âm không lên 
men đường phân lập được ở tất cả các mẫu bệnh 
phẩm từ tháng 09/2013 đến tháng 03/2014 tại 
Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Thời gian và đối tượng nghiên cứu như trên. 
Các bệnh phẩm này được cấy phân lập, định 
danh bằng phương pháp thông thường và 
Api20NE, kháng sinh đồ để xác định tỉ lệ trực 
khuẩn Gram âm không lên men đường được 
phân lập và sự đề kháng kháng sinh của chúng 
(trừ những mẫu bệnh phẩm được cấy 2 lần). 
Đối với các bệnh phẩm tạp nhiễm, chỉ chọn 
vi khuẩn phân lập từ các bệnh phẩm có giá trị và 
dựa vào tiêu chuẩn lấy vào, với bệnh phẩm đàm 
phải được đánh giá có lượng bạch cầu trên 25 và 
biểu mô dưới 10 quan sát trên quang trường 
x100, bệnh phẩm nước tiểu với số lượng vi 
khuẩn cấy được từ 105 CFU/ml trở lên. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang. 
Phương pháp tiến hành 
Phân lập và định danh vi khuẩn gây bệnh 
theo phương pháp thông thường với môi trường 
phân lập và phong phú (EMB, BA), oxidase, môi 
trường chẩn đoán (TSI), môi trường làm kháng 
sinh đồ (MHA-Mueller-Hinton Agar) của hãng 
Bio-Rad, và bộ định danh API 20NE của hãng 
Bio-Merieux (Pháp). 
Kháng sinh đồ: Thực hiện phương pháp 
khuếch tán trên thạch Kirby–Bauer với đĩa 
kháng sinh của hãng ABTECK (Anh). Phương 
pháp MIC với E-test hãng Bio-Merieux (Pháp). 
Thu thập và nhập dữ liệu vào mẫu “Phiếu 
nghiên cứu: của các trực khuẩn Gram âm không 
lên men đường. 
Xử lý và phân tích kết quả bằng phần mềm 
SPSS 22.0 theo hướng thống kê mô tả. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tỉ lệ phân bố trực khuẩn Gram âm không 
lên men đường 
Các vi khuẩn được phân lập từ 135 mẫu 
dương tính với trực khuẩn Gram âm không lên 
men đường từ các loại bệnh phẩm khác nhau, 
bao gồm bệnh phẩm máu chiếm tỉ lệ cao nhất 
35,6% (48/135), đàm 34,1% (46/135), mủ 16,3% 
(22/135), nước tiểu 6,6% (9/135), dịch 7,4% 
(10/135) (tinh dịch, dịch vết thương, dịch màng 
bụng, dịch màng phổi). Các vi khuẩn được phân 
lập từ các mẫu bệnh phẩm được thống kê ở bảng 
1, và tỉ lệ loài trực khuẩn Gram âm không lên 
men đường phân lập được ở bảng 2 cho kết quả 
Acinetobacter baumannii chiếm tỉ lệ cao nhất 
(32,6%), kế đến Pseudomonas aeruginosa (28,1%), 
Burkholderia cepacia (22,2%). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 476
Bảng 1: Tỉ lệ phân bố giữa bệnh phẩm và trực khuẩn Gram âm không lên men đường 
Bệnh phẩm P. aeruginosa 
(n=38) 
Acinetobacter 
spp. 
B. cepacia 
(n=30) 
S. maltophilia 
(n=5) 
Nhóm khác 
(n=10) 
Tổng 
(n=135) 
Máu 1 (2,1%) 20 (41,6%) 23 (47,9%) 2 (4,2%) 2 (4,2%) 48 (100,0%) 
Đàm 18 (39,1%) 20 (43,5%) 4 (8,7%) 1 (2,2%) 3 (6,5%) 46 (100,0%) 
Mủ 6 (27,3%) 7 (31,8%) 3 (13,6%) 2 (9,1%) 4) (18,2%) 22 (100,0%) 
Nước tiểu 7 (77,8%) 2 (22,2%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 9 (100,0%) 
Các loại dịch 6 (60,0%) 3 (30,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 1 (10,0%) 10 (100,0%) 
Bảng 2: Tỉ lệ từng loại trực khuẩn Gram âm không 
lên men đường 
Định danh loài Số lượng 
(n) 
Tỉ lệ 
(%) 
Acinetobacter 
spp. 
Acinetobacter 
baumannii 
44 32,6 
Acinetobacter 
haemolyticus 
3 2,2 
Acinetobacter lwoffii 5 3,7 
Pseudomonas 
aeruginosa 
Pseudomonas 
aeruginosa 
38 28,1 
Burkholderia 
cepacia 
Burkholderia cepacia 
30 22,2 
S. maltophilia Stenotrophomonas 
maltophilia 
5 3,7 
Nhóm khác Burkholderia 
pseudomallei 
3 2,2 
Chryseobacterium 
meningosepticum 
2 1,5 
Pseudomonas 
alcaligens 
1 0,7 
Pseudomonas 
fluorescens 
1 0,7 
Pseudomonas luteola 1 0,7 
Brevundimonas 
vesicularis 
1 0,7 
Weeksella virosa 1 0,7 
Tổng 135 100,0 
Tỉ lệ đề kháng của trực khuẩn Gram âm 
không lên men đường 
Biểu đồ 1: Tỉ lệ đề kháng của Pseudomonas 
aeruginosa (n=38) 
Biểu đồ 2: Tỉ lệ đề kháng của Acinetobacter 
baumannii (n=44) 
Biểu đồ 3: Tỉ lệ đề kháng kháng sinh của 
Burkholderia cepacia (n=30) 
Các trực khuẩn Gram âm không lên men 
đường khác, có chủng phân lập được rất ít, 
nên tỉ lệ đề kháng của chúng chỉ mang tính 
chất tham khảo. Cụ thể như, Stenotrophomonas 
maltophilia có 2/5 chủng đề kháng với 
Chloramphenicol, 1/5 chủng đề kháng với 
Ceftazidime, các kháng sinh còn lại chưa xuất 
hiện chủng đề kháng. Đối với các trực khuẩn 
Gram âm không lên men đường khác kháng 
Colistin (7 chủng), kháng Cefepime và Cefotaxime 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 477
(6 chủng), kháng Ceftriaxone, Imipenem và 
Gentamicin (5 chủng), kháng Tetracycline (3 
chủng), kháng Ceftazidime (2 chủng). 
Tình trạng đề kháng của trực khuẩn Gram 
âm không lên men đường 
Biểu đồ 4: Tỉ lệ đa kháng kháng sinh của P. 
aeruginosa (n=5) 
Biểu đồ 5: Tỉ lệ đa kháng kháng sinh và kháng diện 
rộng của Acinetobacter spp. (nMDR=25, nXDR=9) 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở bảng 1 và 
bảng 2 tỉ lệ nhiễm Acinetobacter baumannii và 
Pseudomonas aeruginosa chiếm tỉ lệ cao nhất trong 
nhiễm khuẩn hô hấp, đều này cũng được ghi 
nhận trong các nghiên cứu khác ở trên thế 
giới(13,4) cũng như ở Việt Nam(11,2). Tỉ lệ phân bố 
trực khuẩn Gram âm không lên men của chúng 
tôi có sự chênh lệch với nhiều nghiên cứu trong 
và ngoài nước. Cụ thể, Acinetobacter baumannii 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với 
nghiên cứu Iain Abbott khu vực Châu Á Thái 
Bình Dương(7), nghiên cứu Bùi Nghĩa Thịnh tại 
BV Cấp cứu Trưng Vương (2010)(2). Nhưng thấp 
hơn nghiên cứu của của Nass T. ở Ấn Độ(8), 
nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan ở BV 
Bệnh Nhiệt Đới (2010)(11), Phạm Hùng Vân và 
nhóm Midas (16 BV năm 2010)(14), nhưng có tỉ lệ 
cao hơn so với các nghiên cứu ở khu vực phía 
Bắc - BV Bỏng Quốc Gia(7), ở miền Trung – BV 
Trung Ương Huế(18). Đối với trực khuẩn 
Pseudomonas aeruginosa trong nghiên cứu của 
chúng tôi cao hơn một số quốc gia trên thế giới 
như Hoa Kỳ(9), một số nghiên cứu khác ở trong 
nước(4,18,14,2), nhưng thấp hơn nghiên cứu của 
Nguyễn Phú Hương Lan- Bv bệnh Nhiệt Đới(11), 
Nguyễn Như Lâm - Viện Bỏng(7). Sự khác biệt 
này có thể do sự kiểm soát nhiễm trùng ở từng 
nước và cơ sở y tế, đối tượng bệnh nhân (thở 
máy, suy giảm miễm dịch, bỏng,), mẫu nghiên 
cứu, thời gian, cũng như đặc tính vi khuẩn đặc 
trưng ở mỗi cơ sở y tế(2). Với tác nhân gây bệnh 
khác trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ 
Burkholderia cepacia trong bệnh phẩm máu chiếm 
tỉ lệ cao nhất so với Acinetobacter baumannii, 
Pseudomonas aeruginosa cũng như các bệnh phẩm 
khác, đây cũng là điểm khác biệt trong nghiên 
cứu của chúng tôi so với các nghiên cứu khác(4,17), 
vì nghiên cứu của chúng tôi chỉ phân lập và định 
danh nhóm trực khuẩn Gram âm không lên men 
đường, trong đó bệnh phẩm máu với tỉ lệ cao nhất là 
Burkholderia cepacia. Nhưng ngược lại, có nghiên 
cứu khác của Trần Minh Giao tiến hành tại bệnh viện 
Nhân Dân Gia Định vào thời gian tháng 06/2008 đến 
tháng 05/2009(13), và nghiên cứu của Phạm Hùng 
Vân cùng nhóm Midas(14) thực hiện tại 16 bệnh viện 
trên cả nước trong thời gian từ 05/2008 đến tháng 
11/2009 đều có 45 trường hợp nhiễm, trong khi 
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được 30 trường 
hợp trong 7 tháng. Tỉ lệ nhiễm Stenotrophomonas 
maltophilia trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
đồng với nghiên cứu của Huỳnh Văn Bình và 
cộng sự tại BV Nhân Dân Gia Định(5), và gần 
tương đồng với nghiên cứu của Trần Văn Sĩ thực 
hiện tại BV Đa Khoa Kiên Giang trong 10 tháng đầu 
năm 2012(17). 
Về mức độ đề kháng của chủng Pseudomonas 
aeruginosa trong nghiên cứu của chúng tôi còn 
nhạy với nhiều kháng sinh. Đây cũng là sự khác 
biệt so với các nghiên cứu khác ở trên thế giới và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 478
Việt Nam. Trong đó, có trên 30% chủng đề 
kháng với Ticarcillin, Imipenem, Gentamicin; 
Các kháng sinh khác có tỉ lệ kháng dao động từ 
5,3% đến 21,1%, riêng kháng sinh nhóm 
Polymyxins chưa xuất hiện chủng đề kháng và 
các nghiên cứu INICC (International Nosocomial 
Infection Control Consortium), MYSTIC 
(Meropenem Yearly Susceptibility Test 
Information Collection), ủng hộ cho nghiên cứu 
của chúng tôi về sự nhạy cảm kháng sinh còn 
tương đối cao ở chủng Pseudomonas aeruginosa(19), 
trong khi những nghiên cứu khác ở Việt Nam có 
tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao(2,4,1,14). Riêng 
Imipenem có tỉ lệ đề kháng cao hơn các kháng 
sinh khác, và tỉ lệ đề kháng Imipenem cao cũng 
được ghi nhận trong nghiên cứu của Nguyễn 
Phú Hương Lan(11), Phạm Hùng Vân và Nhóm 
Midas(14). Sự khác biệt này có thể do chất lượng 
chăm sóc y tế, sử dụng kháng sinh cũng như tình 
hình nhiễm trùng bệnh viện ở mỗi cơ sở y tế 
khác nhau(8). Tuy vẫn còn nhạy cảm cao với 
kháng sinh, nhưng có chủng Pseudomonas 
aeruginosa đa kháng (MDR) với các nhóm kháng 
sinh dao động từ 5,3% đến 10,5% (ngoại trừ chưa 
xuất hiện chủng đa kháng với Polymyxin, 
Meropenem và Ticarcillin/ A. clavulanic), các 
nghiên cứu khác ủng hộ sự đa kháng của chủng 
Pseudomonas aeruginosa ngày càng gia tăng(2,4). 
Đối với Acinetobacter baumannii và 
Acinetobacter spp. khác thể hiện tính kháng thuốc 
cao hơn Pseudomonas aeruginosa và đề kháng với 
nhiều nhóm kháng sinh đối với Acinetobacter 
baumannii ( 38,6% - 81,9%), Acinetobacter spp. 
khác (12,5%-62,5%), điều này cũng được ghi 
nhận trong các nghiên cứu khác ở Việt Nam như 
Huỳnh Văn Bình (BV Nhân Dân Gia Định) -
2006(5) có sự đề kháng nhóm cephalosporins phổ 
rộng từ 45,5% đến 65,9%. Đối với kháng sinh 
nhóm cabapenem, nhóm ức chế con đường 
chuyển hóa Folate (Folate pathway inhibitors) 
(Trimethoprim-sulfamethoxazol), 
Antipseudomonal fluoroquinolones 
(Ciprofloxacin, Levofloxacin) tỉ lệ đề kháng tăng 
cao từ 50% trở lên tương tự như nghiên cứu của 
Bùi Nghĩa Thịnh - BV Cấp Cứu Trưng Vương(2), 
trong nghiên cứu của Nguyễn Phú Hương Lan-
BV Bệnh Nhiệt Đới(11). Trong nghiên cứu chúng 
tôi đặc biệt ghi nhận xuất hiện chủng đề kháng 
cao với Colistin (59,1% đối với Acinetobacter 
baumannii và 37,5% Acinetobacter spp. khác). Và tỉ 
lệ Acinetobacter spp. đa kháng (MDR) và kháng 
diện rộng (XDR) lần lượt là 48,1% và 17,3%. Tỉ lệ 
này khá cao, đưa đến tỉ lệ kháng thuốc của 
chủng đa kháng (MDR) với các nhóm kháng 
sinh cao từ 15,4% đến 44,2% (biểu đồ 5) (trong đó 
có 30,8% chủng đề kháng với Colistin), Sự xuất 
hiện đa kháng của chủng Acinetobacter spp. nói 
chung và Acinetobacter baumannii trong các 
nghiên cứu khác trên thế giới như: MYSTIC 
(Châu Âu-2006)(19) và nghiên cứu của GARP-VN 
(thực hiện ở 16 bệnh viện trên toàn quốc)(1) có tỉ 
lệ kháng các kháng sinh cao hơn trong nghiên 
cứu của chúng tôi. Ngoại trừ chủng Acinetobacter 
spp. trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so 
với các nghiên cứu khác, có thể do đặc điểm vi 
khuẩn, cũng như tình hình nhiễm khuẩn và điều 
trị ở mỗi cơ sở và thời điểm nghiên cứu khác 
nhau. Ở nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ chủng 
Acinetobacter spp. kháng diện rộng (XDR) cao 
chiếm 17,3% (9/52) với tất cả kháng sinh. Các 
nghiên cứu khác ở trong nước chúng tôi không 
ghi nhận tỉ lệ kháng toàn bộ, nhưng sự đề kháng 
diện rộng (XDR) của chủng Pseudomonas 
aeruginosa và Acinetobacter baumannii được ghi 
nhận trong một số nghiên cứu của Việt Nam của 
Phạm Hùng Vân và cộng sự (2009)(14). Những 
trực khuẩn Gram âm không lên men đường còn 
lại vì số chủng phân lập được ít nên chỉ có giá trị 
tham khảo. 
KẾT LUẬN 
Qua đề tài nghiên cứu thực hiện tại bệnh 
viện Đại học Y Dược, ghi nhận A. baumannii 
(32,6%), P. aeruginosa (28,1%), B. cepacia (22,2%), 
S. maltophilia (3,7%), Burkholderia pseudomallei 
(2,2%), Chryseobacterium meningosepticum (1,5%), 
và các vi khuẩn có cùng tỉ lệ 0,7% gồm 
Pseudomonas alcaligens, Pseudomonas fluorescens, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 479
Pseudomonas luteola, Brevundimonas vesicularis, 
Weeksella virosa. Về tỉ lệ đề kháng thì Pseudomonas 
aeruginosa còn nhạy cảm với nhiều kháng sinh, 
những kháng sinh nhóm Polymyxin, 
Meropenem và Ticarcillin/ A. clavulanic chưa 
xuất hiện chủng đề kháng. Ngược lại, 
Acinetobacter spp. đề kháng cao với nhiều nhóm 
kháng sinh dao động từ 25,0% đến 81,9% , cùng 
với sự xuất hiện các chủng đa kháng và kháng 
diện rộng, đặc biệt là tỉ lệ đề kháng với Colistin 
cao. Burkholderia cepacia có tỉ lệ kháng cao nhất 
với Ticarcillin/A. clavulanic (56,6%), kháng 
Meropenem và Ceftazidime chiếm lần lượt là 
36,7% và 33,3%, những kháng sinh còn lại chưa 
xuất hiện chủng đề kháng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế và GARP-VN (2009), “Báo cáo sử dụng kháng sinh và 
kháng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam năm 2008 – 
2009” 
<<URL: cao 
su dung khang sinh va khang khang sinh tai 15 benh vien 
nam 2008-2009.pdf>> 
2. Bùi Nghĩa Thịnh, Nguyễn Hồng Trường và cộng sự (2010), 
“Khảo sát tình hình đề kháng kháng sinh của vi khuẩn tại 
khoa hồi sức tích cực và chống độc Bệnh viện cấp cứu Trưng 
Vương”, Hội nghị khoa học kỹ thuật Bệnh viện cấp cứu 
Trưng Vương năm 2010. 
3. CDC (2013), “Antibiotic resistance threats in the United 
States”, 2013 Section 3: Current Antibiotic Resistance Threats 
in the United States, by Microorganism page 59, 69. 
4. Hujer KM, Hujer AM, Hulten EA, et al. (2006), “Analysis of 
antibiotic resistance genes in multidrug-resistant Acinetobacter 
spp. isolates from military and civilian patients treated at the 
Walter Reed Army Medical Center”, Antimicrob Agents 
Chemother 2006;50:4114-23. 
5. Huỳnh Văn Bình và cộng sự (2009), “Khảo sát tình hình viêm 
phổi bệnh nhân sau mổ có thở máy tại khoa phẫu thuật gây 
mê hồi sức – Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”. Tạp chí Y học 
TP. Hồ Chí Minh, tập 13, số 6: 208 – 216. 
6. Kiratisin P, et al. (2012), “Hospital acquired infection”, Intl J 
Antimicr Agents 39:311-16. 
7. Livermore DM (2002). “Multiple mechanisms of antimicrobial 
resistance in Pseudomonas aeruginosa: our worst nightmare?”, 
Clin. Infect. Dis. 34(5), 634–640. 
8. Naas T, et al (2005). “Outbreak of Carbapenem-Resistant 
Acinetobacter baumannii Producing the Carbapenemase OXA-
23 in a Tertiary Care Hospital of Papeete, French Polynesia”, 
Journal of Clinical Microbiology, vol 43 (9): 4826-4829. 
9. Neuhauser MM, Weinstein RA, Rydman R, Danziger LH, 
Karam G, Quinn JP, (2003) “Antibiotic resistance among 
gram-negative bacilli in U.S. intensive care units: implications 
for fluoroquinolone use”, JAMA 2003;289:885-8. 
10. Nguyễn Như Lâm, Lê Đức Mẫn (2010), “Nghiên cứu căn 
nguyên nhiễm khuẩn và mức độ kháng kháng sinh tại khoa 
hồi sức cấp cứu – Viện bỏng quốc gia”, Tạp chí y học Tp. Hồ Chí 
Minh Tập 14 Phụ bản số 2, năm 2010. 
11. Nguyễn Phú Hương Lan và cộng sự (2012), “Khảo sát mức độ 
đề kháng kháng sinh của Acinetobacter và Pseudomonas phân 
lập tại bệnh viện Nhiệt Đới năm 2010”, Thời sự Y học -Hội Y 
học Tp. Hồ Chí Minh, số 68: 9-12. 
12. Nguyễn Thanh Bảo, Cao Minh Nga (2010), “Chọn lựa kháng 
sinh ban đầu trong điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số 
bệnh viện TP. HCM- 2009-2010”, đề tài cấp Sở Khoa học & 
Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. 
13. Nicasio AM, Kuti JL, Nicolau DP (2008), “The Current State of 
Multidrug-Resistant Gram-Negative Bacilli in North 
America”, Pharmacotherapy.28(5): 235-249 
14. Phạm Hùng Vân và Nhóm nghiên cứu Midas (2009), “Nghiên 
cứu đa trung tâm về tình hình đề kháng kháng sinh của trực 
trùng Gram âm dễ mọc kết quả trên 16 bệnh viện tại Việt 
Nam”, Đề tài nghiên cứu của Hội hô hấp TP. Hồ Chí Minh, tr: 
1-7. 
<<URL:
bapenenR_total_TSPhamHungVan.pdf>> 
15. Phạm Thị Ngọc Thảo (2010), “Đặc điểm bệnh nhân 
nhiễmkhuẩn huyết điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện 
Chợ Rẫy”, Y Hoc TP. Hồ Chí Minh, Tập 14 Phụ bản số 2 - 2010: 
348 – 352. 
16. Trần Minh Giang (2009), “Khảo sát đặc điểm nhiễm 
Burkholderia cepacia tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”. Y học 
TP. Hồ Chí Minh, Tập 13, số 6, tr: 113 – 119. 
17. Trần Văn Sĩ và cộng sự (2013), “Khảo sát tình hình vi khuẩn 
gây nhiễm khuẩn huyết tại bệnh viện Đa Khoa Kiên Giang”, 
Tạp chí y học thực hành <<URL: 
hinh-vi-khuan-gay-nhiem-khuan-huyet-tai-benh-vien-da-
khoa-kien-giang_t4160.aspx.>> 
18. Trương Diên Hải và cộng sự (2012), “Nghiên cứu căn nguyên 
vi khuẩn hiếu khí gây nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện 
Trung Ương Huế từ tháng 05/2011 đến tháng 05/2012”. Tạp 
chí y dược học, số 11, tr: 100 – 108. 
19. Turner PJ (2008). “Meropenem activity against European 
isolates report on the MYSTIC (Meropenem Yearly 
Susceptibility Test Information Collection) 2006 results. Diagn 
Microbiol Infect Dis. 60(5):185-92. 
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014 
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_tac_nhan_va_tinh_de_khang_khang_sinh_cua_truc_khuan.pdf