Luận án Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước

Ở Liên Xô, lập địa được gọi là điều kiện nơi sinh trưởng, nghĩa là tác động tổng hợp của các yếu tố ngoại cảnh hình thành nên các kiểu rừng nhất định và ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng của thực vật rừng [61].

- Ở Đức, lập địa được hiểu là một phạm vi địa bàn nhất định với tất cả những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự sinh tưởng của cây cối. W.Schwanecker (1971), trên cở sở thuyết lâm hình của Suchaev (1958) đã đưa ra khái niệm cụ thể về lập địa như sau [34], [85]:

 

doc 31 trang dienloan 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước

Luận án Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước
	Chương 1	
TỔNG QUAN
1.1 TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1 Lập địa và yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp
- Ở Liên Xô, lập địa được gọi là điều kiện nơi sinh trưởng, nghĩa là tác động tổng hợp của các yếu tố ngoại cảnh hình thành nên các kiểu rừng nhất định và ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng của thực vật rừng [61]. 
- Ở Đức, lập địa được hiểu là một phạm vi địa bàn nhất định với tất cả những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự sinh tưởng của cây cối. W.Schwanecker (1971), trên cở sở thuyết lâm hình của Suchaev (1958) đã đưa ra khái niệm cụ thể về lập địa như sau [34], [85]:
* Các yếu tố tĩnh:
- Khí hậu.
- Địa hình
- Đất
Sinh thái cảnh
(lập địa theo
 nghĩa hẹp)
Sinh địa quần thể tự nhiên (lập địa theo nghĩa rộng)
Sinh địa quần thể tác nhân
* Các yếu tố động:
- Thế giới động vật
- Thế giới thực vật
- Thế giới sinh vật
Quần thể sinh vật
* Các yếu tố tác nhân: Xã hội con người
- Ở Mỹ, D.M Smith (1996) cho rằng lập địa là tổng thể hoàn cảnh của một địa phương và có ý nghĩa truyền thống [43]. Water (1925) cho rằng lập địa là tất cả các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu - thủy văn, đá mẹ - thổ nhưỡng, sinh vật, con người) thường xuyên tác động đến sự sống của sinh vật [71].
Pogrebnhiac (Ucraina) đã phân chia lập địa làm cơ sở cho trồng rừng và xác định các kiểu rừng dựa trên hai yếu tố chính là độ phì và độ ẩm của đất. Trong khi đó Blaglovidop và Buadop (1958), Tretop (1981) thì nền lập địa ở vùng Sankt-Peterburg lại được phân chia dựa vào các yếu tố: đá mẹ hình thành đất, địa hình và chế độ thoát nước. Tretop trong quá trình nghiên cứu còn bổ sung thêm tiêu chuẩn phân chia lập địa là kiểu mùn vì ông cho rằng kiểu mùn phản ánh quá trình hình thành và phát triển độ phì đất rừng [46],[48],[49], [61]. 
1.1.2 Hệ thống cấp phân vị lập địa lâm nghiệp
	Mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật, mục đích kinh doanh khác nhau nên đã xây dựng cho mình những hệ thống cấp phân vị lập địa khác nhau để phục vụ cho việc phân loại và đánh giá lập địa, trong đó:
	- Ở Đức, ngành lâm nghiệp đã đưa ra một phương pháp điều tra lập địa tổng hợp phục vụ sản xuất lâm nghiệp, đã thống nhất phương pháp nghiên cứu phân kiểu lập địa và phương pháp phân vùng lập địa. Tổng kết kinh nghiệm sử dụng phương pháp này; Friedler, Neber và Hunger (1982) đã đưa ra bốn cấp phân vị lập địa đồng thời so sánh với 4 cấp phân vị cảnh quan và 4 cấp phân vị khí hậu, gồm: Cấp vùng sinh trưởng tương đương với cấp đại cảnh quan và cấp vùng khí hậu. Cấp khu sinh trưởng tương đương với cấp cảnh quan và cấp khu khí hậu. Cấp phạm vi bức khảm tương đương với cấp bộ phận cảnh quan và cấp dạng đại khí hậu. Cấp dạng lập địa tương đương với cấp cảnh quan cơ sở và cấp dạng khí hậu địa hình [34], [46], [49].
	- Ở Liên Xô, Blaglovidop và Buadop (1959), Tretop (1981) khi phân chia ĐKLĐ có đặc điểm thoát nước kém ở (Sankt Peterburg) đã xác định hệ thống phân loại lập địa theo 3 cấp, gồm: (1) Nhóm lập địa dựa vào đặc điểm thoát nước để phân chia. (2) Nhóm phụ lập địa dựa vào điều kiện thoát nước và đá mẹ hình thành đất để phân chia. (3) Kiểu lập địa dựa vào cả đá mẹ hình thành đất, địa hình và chế độ thoát nước để phân chia. Pogrebnhiac (1968), cho rằng kiểu lập địa bao gồm mọi khu đất có điều kiện đất đai giống nhau, dựa vào độ phì và độ ẩm của đất đã phân lập được 24 kiểu lập địa. Tùy điều kiện cụ thể, một kiểu lập địa còn có thể chia thành các kiểu phụ dựa vào sự khác nhau về độ pH hay thành các biến chủng nếu khác nhau về đá lẫn, thành phần cơ giới [19], [52], [61]. 
	- Ở Trung Quốc: Năm 1993, khi phân vùng lập địa phía Đông Bắc, Dương Kế Cảo đã xác lập hệ thống cấp phân vị lập địa có 6 cấp, gồm: Khu lập địa. Á khu lập địa phân chia theo sự khác nhau về khí hậu. Tiểu khu lập địa phân chia theo đia mạo và nham thạch. Nhóm kiểu lập địa phân chia theo độ cao và độ dốc. Kiểu lập địa phân chia theo độ dày tầng đất, thành phần cơ giới. Kiểu phụ lập địa phân chia theo độ dày tầng đất mặt, độ pH và mực nước ngầm [46], [48], [49].
	- Ở Canada, Hill (1975) đã sáng lập ra hệ thống phân loại địa lý và đưa ra thuật ngữ mới với tên gọi là "Tổng địa lý" gồm 4 cấp: vùng lập địa, kiểu đất, kiểu lập địa địa lý tự nhiên, kiểu điều kiện lập địa [43].
1.1.3 Các phương pháp phân loại lập địa lâm nghiệp
a) Khái niệm về kiểu lập địa	
Theo Pogrepnhiac (1968), kiểu lập địa bao gồm mọi khu đất có điều kiện đất đai giống nhau kể cả nơi có rừng và nơi không có rừng; khi điều kiện đất đai giống nhau sẽ dẫn tới khả năng xuất hiện các quần xã thực vật giống nhau. Theo Xucasov (1957), kiểu lập địa là tập hợp những khoảnh đất có khả năng xuất hiện những thảm thực vật giống nhau, nghĩa là có phức hệ giống nhau về các yếu tố đất đai có ảnh hưởng đến thực vật [19], [50], [48], [49]. 
b) Các phương pháp phân loại lập địa lâm nghiệp
 	Tổng quát chung về phân loại lập địa thì ở các nước thường sử dụng một số phương pháp sau:
	- Áp dụng chỉ tiêu sinh trưởng của cây rừng để đánh giá và phân loại lập địa: Các chỉ tiêu sinh trưởng được áp dụng chủ yếu là cấp lập địa, chỉ số lập địa và sai số sinh trưởng, trong đó: (1) Cấp lập địa là một chỉ tiêu đo lường tương đối, phản ánh sức sản xuất của đất rừng, thường được xác định bởi tương quan giữa chiều cao bình quân và cấp tuổi, để từ đó chia ra các loại lập địa. Phương pháp này được áp dụng ở Liên Xô từ năm 1950. (2) Chỉ số lập địa, người ta cho rằng độ cao ưu thế của một loài cây ở một tuổi chuẩn có quan hệ với sức sản xuất của lập địa mật thiết hơn so với độ cao bình quân. Đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của mật độ và tổ thành loài cây nhỏ nhất. Phương pháp này được Trung Quốc, Mỹ, Anh ứng dụng từ năm 1970 [43]. Sajjaduzzaman và cộng sự (2005) áp dụng tại Bangladesh để phân loại lập địa cho rừng Tếch [96]. (3) Sai số sinh trưởng được lựa chọn để nghiên cứu chất lượng lập địa ở thời kỳ sinh trưởng của rừng non. Phương pháp này thường được áp dụng tạm thời.
	- Ứng dụng đặc trưng của tổ thành, cấu trúc thực vật rừng: tổ thành, cấu trúc, sinh trưởng của cây rừng có quan hệ mật thiết với ĐKLĐ. Ở Đức (1946) và ở Mỹ (1952) đã dùng nhóm loài sinh thái để biểu thị đặc trưng lập địa và đưa ra hệ thống phân loại lập địa. Một số tác giả cho rằng ở nhưng nơi sự tác động của con người tương đối ít nên dùng thực bì để biểu thị đặc điểm lập địa thì hiệu quả hơn [43]. Ở Đài Loan, Chyi-Ty L và cộng sự (2004) đã phân loại lập địa cho một vùng đồi núi rộng dựa trên bản đồ sinh thái và dữ liệu địa mạo sẵn có [88]. 
	- Áp dụng nhân tố hoàn cảnh: Phương pháp này thường sử dụng những nhân tố hoàn cảnh vật lý có tính ổn định, có quan hệ mật thiết với sinh trưởng của cây rừng để phân chia lập địa, như: (1) Khí hậu là căn cứ để chia ra các vùng lập địa, đai lập địa và khu lập địa để làm đơn vị phân chia trong hệ thống phân loại lập địa. Cùng một vùng khí hậu thì điều kiện đại khí hậu giống nhau, sự khác nhau về tiểu khí hậu là do địa hình và đất khác nhau. (2) Địa hình là một trong những căn cứ để phân loại lập địa. Trong điều kiện khí hậu và đất tương đối đồng nhất và địa hình phức tạp thì địa hình chiếm một địa vị rất quan trọng trong phân loại lập địa. Smalle (1979) đã căn cứ vào địa mạo để phân chia đơn vị lập địa tại vùng cao nguyên Comberland của Mỹ. Tuy nhiên mỗi đơn nguyên còn phải mô tả độ phì của đất, cây chỉ thị và chỉ số lập địa của một số loài cây chủ yếu. Phương pháp này không phù hợp với những nơi có điều kiện địa hình đơn giản và bằng phẳng. (3) Trong điều kiện khí hậu tương đối đồng đều thì nhân tố đất là căn cứ quan trọng để phân chia lập địa. Các học giả Nhật bản đã áp dụng hệ thống phân loại đất của Mỹ, của UNESCO và phương pháp nghiên cứu mối qua hệ giữa đất và lập địa để tiến hành phân loại đất và lập địa ở các bờ sông của Philippines [43]. 
- Áp dụng phương pháp tổng hợp đa nhân tố: Phương pháp này được áp dụng rộng rãi bằng cách lấy chỉ số lập địa là một hàm số và các nhân tố lập địa làm biến số và xây dựng một hàm hồi quy đa nhân tố để tiến hành đánh giá và phân loại lập địa. Ở các nước Đức, Canada và Trung Quốc đã vận dụng phương pháp này để phân loại lập địa [43]. Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm đất đai với cây rừng để định ra điều kiện lập địa [24].
1.1.4 Thảm thực vật và kiểu rừng
- Trochain (1954) cho rằng kiểu thảm thực vật là tập thể cây cỏ lớn đem lại một hình dạng đặc biệt cho cảnh quan do sự tập hợp của những cây cỏ khác loài nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế [19]. 
- Theo Môrôdôp (1904) thì kiểu rừng là một tập hợp các lâm phần có sự đồng nhất về điều kiện mọc hoặc điều kiện đất đai. Khi phân loại các kiểu rừng phải đặt chúng theo các vùng địa lý. Các kiểu rừng được phân ra hai nhóm, gồm: (1) Nhóm kiểu rừng cơ bản là những lâm phần được xuất hiện do kết quả tiến hóa lâu dài của đất và thảm thực vật rừng. (2) Nhóm kiểu thứ sinh là những lâm phần được xuất hiện dưới ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài ở nơi mọc của kiểu rừng cơ bản với sự thay đổi thành phần loài cây. Theo Pogrepnhiac (1950) thì kiểu rừng là một đơn vị thống nhất giữa các loài thực vật, động vật và hoàn cảnh xung quanh. Theo Alêcxêep (1950) thì kiểu rừng là một hợp phần của các khoảnh rừng có sự đồng nhất về đặc điểm lâm học, khả năng áp dụng các biện pháp phục hồi và tái sinh rừng [43].
1.1.5 Sinh trưởng và mô hình toán học trong sinh thái rừng
	Khi nghiên cứu về suất sinh trưởng ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển ở rừng mưa nhiệt đới, Richards cho rằng "Suất sinh trưởng của một cây gỗ trong mọi giai đoạn phát triển của nó đều do hai nhóm nhân tố quyết định là điều kiện hoàn cảnh và tính di truyền. Tính di truyền biến đổi từ loài cây này sang loài cây khác" [57].
	Theo K.J. Walter, ứng dụng phân tích hệ thống đối với sinh thái học được biết dưới tên gọi hệ sinh thái và đã trở thành một môn khoa học. Mọi hệ toán học trong sinh thái được gọi là mô hình, vì nó là hình ảnh không đầy đủ và trừu tượng của thế giới thực tại. Mục đích của các mô hình toán học được xây dựng là để dự đoán sự thay đổi của hệ sinh thái. Các mô hình sinh thái thường phức tạp nên phải được nghiên cứu chủ yếu nhờ vào sự mô hình hóa bằng máy tính [18].
	Mô hình hồi quy tuyến tính: Một sự mô tả về mối quan hệ giữa hai biến x và y mà không thể xác định được bằng mối quan hệ hàm số y =f(x), có thể xác định được bởi mô hình xác suất. Dạng tổng quát của một mô hình xác suất cho phép y lớn hơn hoặc nhỏ hơn hàm f(x) một độ lệch tự do e nào đó. Phương trình mô hình có dạng y =f(x) +e [91]. Nếu một phương pháp nghiên cứu yêu cầu một mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến thì cần thiết phải chuyển dạng một trong hai hoặc cả biến để thỏa mãn yêu cầu này [87]. Kiểu mô hình được mô tả dưới dạng biểu thức toán học thường được sử dụng nhiều nhất trên máy tính, nó được phát triển để diễn tả đúng đắn về sinh vật và ứng dụng trong sinh thái học [93]. 
	Để xây dựng các mô hình hồi quy đa biến, các nhà khoa học lâm nghiệp trên thế giới đã thử nghiệm rất nhiều dạng phương trình toán học và qua đó đã đề xuất một số hàm tương đối đặc trưng để mô tả quy luật về sinh trưởng và sản lượng rừng cho một số loại rừng cụ thể. Trong đó, đối với rừng trồng thuần loài người ta thường sử dụng những hàm: (1) Hàm Thomasius (1978) có dạng: y=a0(1-e-bt), trong đó: y là chỉ tiêu sinh trưởng, a0 = ymax là chỉ tiêu sinh trưởng lớn nhất, e là cơ số Neper, b là tham số phương trình phụ thuộc vào loài cây, t là tuổi rừng. (2) Hàm Michailov có dạng: y=a.e-b/t, trong đó: y là chỉ tiêu sinh trưởng, a và b là tham số của phương trình phụ thuộc vào loài cây, t là tuổi rừng. (3) Hàm Wenk có dạng: log(lm) = a0 + a1logt + a2loghg + a3logG +a4log2G, trong đó: lm là tăng trưởng về trữ lượng rừng, t là tuổi rừng, hg là chiều cao bình quân của cây rừng theo cây bình quân tiết diện ngang, G là tổng tiết diện ngang của rừng [73].
1.1.6 Đánh giá lập địa lâm nghiệp
	- Trên phạm vi toàn cầu thì phương pháp đánh giá đất của FAO được áp dụng khá phổ biến. Ban đầu phương pháp này, được áp dụng ở các nước Tây Âu, đến năm 1984 được tổ chức FAO thừa nhận và đề xuất áp dụng chung trên toàn thế giới [61].
	- Cộng hòa Dân chủ Đức và các nước thuộc Liên Xô, phương pháp đánh giá đất dựa trên cơ sở lập địa được áp dụng khá phổ biến. Đại diện cho cách làm này có Krauss (1935, 1954), Kopp (1965, 1969), W. Schwaneeke (1965, 1974), Pogrebnhiac (1950), Trectop (1977, 1981). Theo phương pháp này thì đánh giá lập địa là nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên với nhau, giữa các thành phần tự nhiên với cây trồng trong một khoảng không gian nhất định và được cụ thể hóa lên bản đồ [46], [61].
	- Ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa, phương pháp phân hạng đất đai được áp dụng khá phổ biến. Phương pháp này áp dụng chủ yếu cho cây trồng nông nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tìm mối quan hệ giữa đặc điểm, tính chất đất đai với năng suất cây trồng để phân hạng đất thành các cấp khác nhau ứng với các loại cây trồng khác nhau [40], [61].
	- Ở Mỹ: (1) Phương pháp phân chia cấp đất đã được Williams (1986) áp dụng tại bang Maine đối với cây Vân sam (Picea abies) và cây Linh sam (Pseudotsuga menziesii), theo đó lập địa của những lâm phần này được phân thành 5 cấp [96]. (2) Lấy năng suất cây trồng trong nhiều năm làm tiêu chuẩn và phân hạng đất đai cho từng cây trồng cụ thể, trong đó chọn cây lúa mì làm đối tượng chính [30].
	- Ơ Bangladesh phương pháp phân chia cấp đất cũng đã được Sajjaduzzaman (2005) áp dụng đối với rừng Tếch dưới 40 tuổi, theo đó lập địa được phân thành 02 cấp [97]. 
1.2 Ở VIỆT NAM
1.2.1 Lập địa và yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp 
1.2.1.1 Khái niệm lập địa lâm nghiệp
- Lập địa là nơi sống của một loài hay tập hợp loài cây dưới ảnh hưởng của tất cả các yếu tố ngoại cảnh tác động lên chúng [4].
- Lập địa là nơi sinh sống của sinh vật, hay một tập hợp các nhân tố sinh thái, ấn định sự tồn tại của các quần xã sinh vật [71].
- Lập địa là một phạm vi lãnh thổ nhất định với tất cả những yếu tố của ngoại cảnh ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây cối. Lập địa theo nghĩa hẹp bao gồm 3 thành phần: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và theo nghĩa rộng bao gồm 4 thành phần: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và thế giới động thực vật. Đơn vị cơ bản trong phân loại lập địa là dạng lập địa và nhóm dạng lập địa, trong đó: (1) Dạng lập địa là tập hợp tất cả những lập địa riêng lẻ có các yếu tố cấu thành dạng lập địa được xem là đồng nhất, là đơn vị cơ bản, cuối cùng của hệ thống phân vị để đánh giá lập địa. (2) Nhóm dạng lập địa là tập hợp các dạng lập địa có độ phì tổng quát và hướng sử dụng tương tự nhau, có quan hệ gần gủi về mặt sinh thái, có cùng biện pháp kinh doanh [46], [48], [49], [61], [85].
1.2.1.2 Yếu tố và phân cấp yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp
	Schwanecker (1971 - 1984) và ctv đã vận dụng phương pháp điều tra lập 
địa tổng hợp kiểu Đức để xây dựng và ban hành Quy trình tạm thời về điều tra lập địa lâm nghiệp phục vụ cho thiết kế trồng rừng ở miền Bắc. Tại Quy trình này, Schwanecker và ctv đã phân loại lập địa dựa vào các yếu tố: Nhiệt độ bình quân năm, tổng nhiệt độ trên 20oC, số tháng khô, lượng mưa bình quân năm, địa hình và đá mẹ tạo đất, dạng địa thế, dạng đất, dạng trung khí hậu địa hình, dạng trạng thái  ... a chỉ số chiều cao của lâm phần (có thể là chiều cao bình quân hoặc chiều cao cây trội) ứng với cấp tuổi nhất định. Chỉ số chiều cao phản ánh lâm phần sinh trưởng trong điều kiện lập địa tốt hay xấu. Dựa vào sự biến động chiều cao lâm phần hoặc chiều cao cây trội ở các cấp tuổi trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau mà phân chia thành các cấp đất khác nhau. Thông thường một biểu cấp đất gồm từ 5 - 8 cấp. Dựa vào tuổi, chiều cao lâm phần hoặc chiều cao cây trội của lâm phần thì xác định được lâm phần thuộc cấp đất nào. Phương pháp này đã được Vũ Đình Phương (1972) áp dụng để xây dựng biểu cấp đất cho rừng Bồ đề [61]. Vũ văn Nhâm (1988) áp dụng để xây dựng biểu cấp đất cho rừng Thông đuôi ngựa [23]. Phương pháp này có ưu điểm là dễ áp dụng, phản ánh được ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố lập địa đến sinh trưởng đến cây trồng, chất lượng lập địa, sức sản xuất của rừng. Nhưng có nhược điểm là không đi sâu vào phân loại và đánh giá tiềm năng lập địa, khó tìm đủ dung lượng mẫu cho một cấp tuổi ở những điều kiện lập địa khác nhau để so sánh chỉ số sinh trưởng chiều cao [73].
1.2.8 Lập bản đồ phân vùng lập địa cho sản xuất lâm nghiệp
	* Tỷ lệ bản đồ phân vùng lập địa lâm nghiệp: Tùy thuộc vào yêu cầu khai 
thác và độ chính xác của thông tin để phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau mà người ta xây dựng nên bản đồ lập địa ở các mức tỷ lệ khác nhau, như: (1) Mức tỷ lệ từ 1/100.000 - 1/1.000.000, mô tả dạng đất đai và tiểu vùng lập địa, dùng để quy hoạch sử dụng đất cho một vùng rộng lớn. (2) Mức tỷ lệ từ 1/25.000 - 1/50.000, mô tả dạng đất đai để xác định phương hướng kinh doanh cho một vùng hoặc một khu kinh tế và lập kế hoạch điều chế rừng. (3) Mức tỷ lệ từ 1/5.000 - 1/10.000, mô tả đến các dạng lập địa để xây dựng các dự án trong sản xuất lâm nghiệp và nghiên cứu khoa học [40], [61], [71], [85].
	* Các loại bản đồ phân vùng lập địa lâm nghiệp: Bản đồ phân vùng lập địa là kết quả cuối cùng của việc phân loại lập địa, theo đó có những loại bản đồ phân vùng lập địa: bảng đồ các đơn vị lập địa, bản đồ phân vùng tiềm năng, bản đồ phân vùng thích hợp cho mỗi loại cây trồng. Ngoài ra còn có loại bản đồ thích hợp cho một số loại cây trồng trên các dạng lập địa, loại bản đồ này mang tính tổng hợp, nó được xây dựng từ bảng đồ dạng lập địa cùng với hệ thống chú dẫn về mức độ thích hợp của một số loại cây trông trên mỗi dạng lập địa.
1.2.9 Ứng dụng công nghệ thông tin 
1.2.9.1 Hệ thống thôn tin địa lý
	Hệ thống thông tin địa lý (GIS) là một dạng hệ cơ sở dữ liệu, nhưng được thiết kế để làm việc chuyên nghiệp với các thông tin địa lý. GIS cũng có đầy đủ chức năng của một hệ dữ liệu cơ sở bình thường khác như phân tích thông tin, mô hình hóa, tổng hợp dữ liệu, tiên đoán xu hướng. Ngoài ra còn có khả năng giao tiếp được với những cơ sở dữ liệu khác để trao đổi thông tin. Mapinfo là một trong những phần mềm GIS được sử dụng phổ biến ở nước ta. Ngoài những chức năng quan trọng khác của một GIS thì Mapinfo có ưu điểm rất lớn trong việc biên tập bản đồ [39]. GIS có thể lưu trữ số liệu với số lượng lớn, cập nhật, truy xuất dễ dàng. Đặc biệt có khả năng chồng xếp các lớp bản đồ để tổng hợp và phân tích thông tin. GIS cũng có những hàm cơ bản để lập biểu thức và phân tích số liệu như một số hệ quản trị dữ liệu khác, nhưng trong GIS còn có thêm các từ khóa địa lý hỗ trợ để xây dựng các hàm, biểu thức truy vấn địa lý. GIS là công cụ biên tập bản đồ khá mạnh, có thể cho ra nhiều dạng bản đồ khác nhau. Với những ưu điểm này nên GIS là công cụ đắc lực cho các nhà khoa học nghiên cứu về hệ thống canh tác, đánh giá đất đai, đánh giá khả năng thích hợp của các kiểu sử dụng đất, quản lý và xử lý các bản đồ giải thửa đất đai [42]. Dữ liệu trong GIS bao gồm hai hợp phần là dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính thuộc hai dạng cấu trúc dữ liệu là vector và raster. Trong đó dạng raster được xác định là hệ thống các ô lưới thuận lợi cho phân tích các mô hình không gian [3], [36].
1.2.9.2 Công cụ lập trình
	* Công cụ lập trình và thiết kế phần mềm: Hiện nay có nhiều bộ công cụ lập trình (CCLT) với nhiều ngôn ngữ lập trình (NNLT) khác nhau được ứng dụng rải trên phạm vi toàn thế giới. Trong số những bộ CCLT đó, có bộ Visual Studio của Microsoft được coi là bộ CCLT thông dụng dụng nhất thế giới. Bộ công cụ lập trình này có MVF9 là CCLT được chọn để phát triển phần mềm nhờ những đặc tính ưu việt của chúng như: trực quan, thiết kế nhanh, quản lý được các tệp cơ sở dữ liệu lớn, có hệ thống lệnh và hàm phong phú, cách tạo form đơn giản nhưng hiệu quả, áp dụng cho nhiều lĩnh vực [41], [86].
	* Ứng dụng CCLT trong thiết kế phần mềm: Viện Khoa học Lâm Nghiệp đã phát triển phần mềm đánh giá đất lâm nghiệp FOLES trên nền ArcEngine. Phần mềm này dựa trên nền tảng đánh giá đất lâm nghiệp của FAO đã được cải tiến cho phù hợp với điều kiện Việt Nam [1]. Vương Văn Quỳnh (2009 - 2012) đã sử dụng MVF9 để xây dựng: (1) phần mềm cảnh báo cháy rừng rừng trên phạm vi toàn quốc[53]. Phần mềm chi trả dịch vụ môi trường rừng [54]. Phầm mềm kiểm kê hiện trạng rừng cho tỉnh Hà Tỉnh [55]. Ông Văn Thông (1998, 2001, 2002) đã biên tập những giáo trình thực hành MVF9, trong đó hướng dẫn thiết kế phần mềm ứng dụng trong quản lý doanh nghiệp [76], [77], [78]. 
1.3 Ở BÌNH PHƯỚC 
1.3.1 Các yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp
	* Vị trí địa lý: Bình Phước là một tỉnh thuộc khu vực miềm Đông Nam Bộ, là vùng chuyển tiếp giữa Tây nguyên và đồng bằng phía Nam, có tọa độ địa lý từ 106o24' đến 107o 25' kinh độ Đông, từ 1107' đến 12o19' vĩ độ Bắc, có tổng diện tích tự nhiên 687.392,60 ha [12], [13], [14].
	*Địa hình: Bình Phước nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng Tây nguyên và vùng đồng bằng Nam bộ nên địa hình tương đối đơn giản có dạng núi thấp, đồi bát úp lượn sóng, dạng bậc thềm, tương đối phẳng và thoải dần về phía Tây Nam [22], [67]. 
	* Khí hậu: Bình Phước thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với những nét đặc sắc do tác động của địa hình; nên có nền nhiệt độ cao, lượng mưa tương đối khá, nhưng phân bố không đều, mùa mưa mưa chiếm 84 - 90 % tổng lượng mưa cả năm [66], tăng dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
	* Đá mẹ và đất: Đoàn địa chất I (2004) đã xác định những loại đá mẹ và nền vật chất tạo đất trên địa bàn tỉnh, gồm: đá bazan, đá phiến sét, đá granite và mẫu chất phù sa cổ [68]. Theo Bảng đồ đất, tỷ lệ 1/250.000 của Phạm Quang Khánh (1993, 2003, 2010) thì tỉnh Bình Phước có 11 đơn vị thuộc 7 nhóm đất (trong đó nhóm đất sông hồ không xác định được tên đất) [67].
	* Loại hình sử dụng đất: Trần Quốc Hoàn (2008), khi nghiên cứu về xói mòn đất tại tỉnh Bình Phước đã xác định được 20 LHSDĐ. Phạm Quang Khánh (2010), khi xây dựng bản đồ đánh giá đất đất đai tỉnh Bình Phước đã xác định được 11 LHSDĐ chính trên địa bàn tỉnh, gồm: cây trồng ngắn ngày, Cao su, Điều, Tiêu, Cà phê, Ca cao, cây ăn quả, rừng trồng và thủy sản nước ngọt [67]. 
1.3.2 Đánh giá đất đai
	Trần Quốc Hoàn và ctv (2007, 2012) khi ứng dụng phương pháp đánh giá đất của FAO làm cơ sở cho việc đề xuất sử dụng đất lâm nghiệp tại huyện Đồng Phú - tỉnh đã xây dựng được Bản đồ đánh giá khả năng thích hợp đất đai đối với một số loại hình sử dụng đất lâm nghiệp huyện Đồng Phú ở mức tỷ lệ 1/25.000. 	Phạm Quang Khánh (2010) khi điều tra chỉnh lý xây dựng bản đồ đất và bản đồ đánh giá đất đai tỉnh Bình Phước, tỷ lệ 1/100.000; theo đó, đã đánh giá, phân vùng thích hợp cho 11 LHSDĐ và LHSDĐ chính (rừng trồng là 1 LHSDĐ chính được xét chung mà không phân biệt đến các loại cây trồng cụ thể) [67]. 
1.4 Nhận xét về tổng quan
1.4.1 Về quan điểm chung
- Về khái niệm lập địa: Có rất nhiều khái niệm về lập địa nhưng có thể hiểu bản chất của lập địa là "Một phạm vi lãnh thổ nhất định với tất cả những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới sự tồn tại và sinh trưởng của các quần xã sinh vật, các yếu tố ngoại cảnh gồm: các yếu tố phi sinh vật, các yếu tố sinh vật và các yếu tố lịch sử. Tùy theo mục tiêu nghiên nhiên cứu, có thể phân ra hai loại khái niệm lập đia: (1) Theo nghĩa hẹp thì lập địa bao gồm các yếu tố phi sinh vật. (2) Theo nghĩa rộng thì lập địa bao gồm các yếu tố phi sinh vật, sinh vật và lịch sử.
	- Kiểu lâm phần, loại hình sử dụng đất lâm nghiệp hay mô hình sử dụng đất lâm nghiệp là những khái niệm dùng để khái quát lên hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp trên các điều kiện lập địa. 
	- Các yếu tố lập địa luôn tác động tổng hợp đến sinh trưởng của cây trồng. Đối với mỗi loại cây trồng cụ thể và trong giai đoạn sinh trưởng phát triển cụ thể thì yếu tồ nào có ảnh hưởng lớn đối với cây trồng được gọi là yếu tố chủ đạo. Mỗi yếu tố sinh thái hay yếu tố lập địa là một điều kiện sống của sinh vật và được xem là yếu tố điều khiển sự sống của sinh vật.
	- Đơn giản hóa mối quan hệ giữa sinh trưởng của cây rừng với điều kiện lập địa bằng những phương trình hồi quy được gọi là mô hình sinh trưởng của cây rừng.
	- Phân loại lập địa, phân chia lập địa, phân vùng lập địa là những khái niệm tương tự nhau, cùng được sử dụng để: (1) Phân lập các đơn vị lập địa theo tiêu chuẩn phân loại, chuyển họa chúng lên bản đồ và xác định được ở ngoài thực địa. (2) Phản ánh tiềm năng hoặc mức độ thích hợp với cây trồng. Nghiên cứu này sử dụng thuật: Phân loại lập địa là muốn nhấn mạnh việc phân lập các đơn vị lập địa theo tiểu chuẩn phân loại lập địa. Phân vùng lập địa là phân vùng ranh giới các đơn vị lập địa đã được phân lập được lên bản đồ và xác định được trên thực địa.
	- Việc xây dựng bộ tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá lập địa phải dựa vào điều kiện tự nhiên, phải xác định được những yếu tố chủ đạo, dễ xác định ngoài thực địa và phải phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
	- Hệ thống phân vị cấp lập địa ở Việt Nam hiện nay đối với đất đồi núi có 6 cấp, đối với đât ngậm mặn và đất phèn có 4 cấp là phù hợp. Dạng lập địa còn được gọi là lập địa cấp 1 là đơn vị để đánh giá, quy hoạch sử dụng đất vi mô cho cấp xã, huyện.
	- Có hai hướng phân loại lập địa là phân loại theo tiềm năng và phân loại theo khả năng thích hợp. 
	- Đánh giá đất lâm nghiệp: Là quá trình xác định tiềm năng của lập địa và đánh giá mức độ thích hợp của lập địa với các MHSDĐ (loại cây trồng), có 4 phương được áp dụng tại Việt Nam, gồm: theo hướng dẫn của FAO (1984), dựa trên cơ sở lập địa, phân hạng đất đai, phân chia cấp đất trồng rừng. Về bản chất thì các phương pháp đánh giá đất lâm nghiệp đều xuất phát từ nghiên cứu đặc điểm các yếu tố cấu thành ĐKLĐ, đánh giá mức độ ảnh hưởng của ĐKLĐ đến sinh trưởng của cây trồng để tiến hành phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và những hạn chế nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu đánh giá đất lâm nghiệp thì phải căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu và tình hình thực tế để lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp.
	- Có 4 loại bản đồ lập địa: Bản đồ các đơn vị lập địa được xác định từ phương pháp phân loại từ các yếu tố tự nhiên. Bản đồ phân vùng tiềm năng lập địa. Bản đồ phân vùng lập địa theo mức độ thích hợp với mỗi loại cây trồng. Bản đồ thích hợp cho nhiều loại cây trồng được xây dựng trên cơ sở bản đồ dạng lập địa cùng với hệ thống chú giải về mức độ thích hợp với các loại cây trồng. Tỷ lệ bản đồ tùy thuộc vào mục tiêu quy hoạch, sử dụng đất.
	- Công cụ lập trình: Visual Studio của Microsoft được coi là bộ CCLT thống dụng nhất thế giới. Trong lâm nghiệp, đã ứng dụng MVF9 để phát triển một số phần mềm ứng dụng về quản lý tài nguyên thiên nhiên. 	
	- Đã có những nghiên cứu xây dựng bản đồ đất, bản đồ đơn vị đất đai, bản đồ các yếu tố khí hậu trên phạm vi toàn tỉnh Bình Phước ở tỉ lệ 1/100.000.
1.4.2 Những tồn tại chính
	- Ở quy mô toàn quốc thì việc phân loại lập địa hay phân vùng lập địa hầu 
hết mới dừng lại ở cấp tiểu vùng, chưa đủ cơ sở để quy hoạch sử dụng đất ở tầm trung và vi mô cho các địa phương.
	- Nghiên cứu về đánh giá đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước còn rời rạc, chưa hệ thống, chủ yếu tập trung cho đất ngoài lâm phần với các nhóm mô hình sản xuất nông nghiệp và chỉ mới dừng lại ở mức làm cơ sở cho định hướng phát triển lâm nghiệp ở tầm vĩ mô.
	- Mỗi phương pháp đánh giá đất đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định. Riêng mỗi phương pháp thì chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu và ứng dụng một cách toàn diện, hệ thống.
	- Các phương pháp đánh giá, phần vùng lập địa hầu hết chưa lập luận rõ tính hệ thống và vai trò điều khiển của các yếu tố lập địa.
	- Trong nghiên cứu sinh trưởng của cây rừng, chưa xác lập được tiêu chí loại bỏ được ảnh hưởng của yếu tố tuổi để làm thước đo phản ánh mức độ phù hợp của cây trồng với điều kiện lập địa.
	- Chưa thiết lập được hệ thống phân loại lập địa từ cấp tiểu vùng đến cấp dạng lập địa trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 
	- Chưa xây dựng được hệ thống lưới cơ sở dữ liệu lập địa dạng raster, mỗi ô vuông có cạnh 100 m, được gắn những giá trị thuộc tính là những yếu tố cấu thành lập địa trên phạm vi một tỉnh. 
	- Kỷ thuật xử lý dữ liệu trong nghiên cứu lập địa: Chưa đánh giá đất lâm nghiệp đến từng điểm lập địa (từng ha) trên phạm toàn tỉnh. Chưa có phần mềm chuyên dùng để quản lý lập địa cho các tỉnh, trong đó có tỉnh Bình Phước.
1.4.3 Những nội dung cần thực hiện tiếp
	- Phân vùng lập địa đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ cấp tiểu vùng đến cấp dạng lập địa.
	- Xây dựng lưới cơ sở dữ liệu lập địa trên phạm vi một tỉnh với độ chi tiết đến từng ô vuông có cạnh 100 m. Mỗi ô vuông được gắn các giá trị thuộc tính chính là giá trị các yếu tố lập địa tại điểm đó.
	- Ứng dụng phương pháp luận hệ thống và yếu tố điều khiển trong nghiên cứu phân vùng lập địa. 
	- Xác lập được chỉ số sinh trưởng tương đối loại bỏ ảnh hưởng của yếu tố tuổi làm thước đo phản ánh mức độ phù hợp của cây trồng với lập địa.
	- Đánh giá, phân vùng lập địa lâm nghiệp tỉnh Bình Phước có hệ thống, tương đối toàn diện trên cơ vận dụng ưu điểm của các phương pháp đánh giá đất lâm nghiệp hiện nay.
	- Đánh giá khả năng thích hợp, phần vùng khả năng thích hợp cho một số loại rừng trồng chủ yếu trên địa bàn tỉnh đến từng điểm lập địa (1 ha).
	- Ứng dụng công nghệ thông tin để: thiết lập lưới cơ sở dữ liệu lập địa; lập trình đánh giá, phân vùng lập địa; phát triển phầm mền ứng dụng quản lý lập địa. 
1.4.4 Tính mới của Luận án
	- Tạo ra hệ thống lưới cơ sở dữ liệu lập địa, mỗi ô lưới đều định lượng được giá trị các yếu tố cấu thành lập địa để làm cơ sở cho việc nghiên cứu lập địa đến từng ô lưới (tương đương 1 ha ngoài thực địa).
	- Thiết lập được tiêu chuẩn phân loại lập địa cho: tiểu vùng lập địa, dạng đất đai, dạng lập địa, tiềm năng sản xuất và cho khả năng thích hợp cho một số loại rừng trồng để đánh giá, phân vùng đất lâm nghiệp tỉnh Bình Phước tương đối hệ thống và toàn diện.
	- Thiết lập được chỉ số sinh trưởng tương đối của rừng trồng, loại bỏ được ảnh hưởng của tuổi, làm tiêu chuẩn đánh mức độ thích hợp của rừng trồng với lập địa.
	- Ứng dụng phương pháp luận hệ thống điều khiển trong sinh thái học cho nghiên cứu phân vùng lập địa.
	- Toàn bộ kỷ thuật xử lý dữ liệu để nghiên cứu phân vùng lập địa đều được thực hiện bằng các chương trình ứng dụng trong MVF 9.0. Phát triển phần mềm quản lý lập địa tỉnh Bình Phước tương đối toàn diện.

File đính kèm:

  • docluan_an_nghien_cuu_phan_vung_lap_dia_phuc_vu_cho_san_xuat_la.doc
  • doc01 Bia.doc
  • doc02 loi cam doan.doc
  • doc03 Muc luc.doc
  • doc04 Mo dau.doc
  • docx06 Chuong 2.docx
  • doc08 Chuong 4.doc
  • docx09 danh muc cong trinh cong bo.docx
  • doc10 Tai lieu tham khao.doc
  • doc11 trang phu luc.doc
  • docx12 Phụ luc 1.docx
  • doc13 Phụ lục 2.doc
  • docx14 Phụ luc 3.docx
  • pdfChuong 3.pdf
  • docTom tat luan an NCS Tran Quoc Hoan.doc
  • docTrang thong tin diem moi cua luan an Tran Quoc Hoan.doc