Một số đặc điểm của lời dẫn chương trình truyền hình

Truyền hình (Television) là một loại

hình truyền thông đại chúng (Mass

Communication) chuyển tải thông tin bằng

hình ảnh và âm thanh về một sự kiện hoặc

một vấn đề đi xa bằng sóng vô tuyến điện

thông qua ăng-ten hoặc hệ thống cáp.

Báo truyền hình (Television Press) là

một trong bốn loại hình báo (báo in, báo

phát thanh, báo truyền hình, báo điện tử)

được thực hiện và truyền tải thông qua hệ

thống máy phát và máy thu truyền hình của

một quốc gia, một khu vực

pdf 10 trang dienloan 4580
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm của lời dẫn chương trình truyền hình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm của lời dẫn chương trình truyền hình

Một số đặc điểm của lời dẫn chương trình truyền hình
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
Tập 14, Số 2 (2017): 30-39 
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES
Vol. 14, No. 2 (2017): 30-39
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
30 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA LỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH 
Lê Thị Như Quỳnh* 
Ngày Tòa soạn nhận được bài: 12-11-2016; ngày phản biện đánh giá: 21-01-2017; ngày chấp nhận đăng: 21-02-2017 
TÓM TẮT 
Lời dẫn là phương tiện để người dẫn chương trình truyền hình (NDCTTH) điều khiển, dẫn 
dắt chương trình truyền hình (CTTH) vận động theo đúng kế hoạch. Lời dẫn là thông điệp rút gọn 
của buổi diễn và có tác dụng giữ chân khán giả ở lại với chương trình. Nghiên cứu về lời dẫn là 
nghiên cứu một trong những phương diện nội dung quan trọng nhất của CTTH. 
Từ khóa: người dẫn chương trình truyền hình, lời dẫn chương trình truyền hình/lời dẫn 
truyền hình, chương trình truyền hình, ngôn ngữ truyền hình. 
ABSTRACT 
Some characteristics of television program introduction 
Television (TV) program introduction is a means for TV presenters to direct and lead a TV 
program up as planned. TV program introduction is an abbreviated message of the performance 
and to keep the audience’s attention during the program. Research on TV program introduction is 
to study one of the most important content aspects of TV programs. 
Keywords: television presenter, television progam introduction/television lead, TV program, 
TV language. 
* Đài Truyền hình TPHCM; Email: lenhuquynh@yahoo.com 
1. Khái quát về báo truyền hình và 
người dẫn chương trình truyền hình 
1.1. Báo truyền hình 
Truyền hình (Television) là một loại 
hình truyền thông đại chúng (Mass 
Communication) chuyển tải thông tin bằng 
hình ảnh và âm thanh về một sự kiện hoặc 
một vấn đề đi xa bằng sóng vô tuyến điện 
thông qua ăng-ten hoặc hệ thống cáp. 
Báo truyền hình (Television Press) là 
một trong bốn loại hình báo (báo in, báo 
phát thanh, báo truyền hình, báo điện tử) 
được thực hiện và truyền tải thông qua hệ 
thống máy phát và máy thu truyền hình của 
một quốc gia, một khu vực. 
Tuy ra đời sau báo in và báo phát 
thanh, nhưng với lợi thế riêng biệt của 
mình, cộng với sự phát triển mạnh mẽ của 
kĩ thuật vật lí điện tử những năm cuối thể 
kỉ XX đầu thế kỉ XXI, báo truyền hình từ 
chỗ chỉ là phương tiện giải trí và thông tin 
đơn giản như ở thập kỉ 50 của thế kỉ XX, 
đã trở thành một kênh thông tin hết sức 
quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay. 
Báo truyền hình, ngoài những đặc 
điểm chung của báo chí (như tính chính 
xác, tính cụ thể, tính ngắn gọn, tính đại 
chúng, tính khách quan, tính khuôn mẫu) 
còn có những đặc trưng sau đây: 
- Tính thời sự cao; 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Thị Như Quỳnh 
31 
- Thông tin đa kênh (hình ảnh, âm 
thanh, lời nói và chữ viết); 
- Tính tuyến tính về cách thức truyền 
tải thông tin; 
- Tính trực quan, cụ thể; 
- Tính phổ cập và tầm ảnh hưởng rộng 
lớn; 
- Tính thuyết phục, tác động mạnh mẽ; 
- Tính đối thoại và diễn đàn xã hội; 
- Tính tập thể của sản phẩm sáng tạo. 
Xét về chức năng, theo tác giả 
Dương Xuân Sơn [7, tr.30-50], báo truyền 
hình thực hiện 5 chức năng cơ bản: chức 
năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức 
năng tổ chức – quản lí xã hội, chức năng 
phát triển văn hóa và giải trí, chức năng 
giám sát xã hội. 
Hiện nay báo truyền hình Việt Nam 
có các thể loại cơ bản sau: Tin truyền hình 
(Television News), Tường thuật truyền 
hình (Television Running Commentary), 
Phóng sự truyền hình (Television 
Reportage), Kí sự truyền hình (Television 
Chronicle), Phỏng vấn truyền hình 
(Television Interview), Bình luận truyền 
hình (Television Comment), Tọa đàm 
truyền hình (Talk Show), Phim tài liệu 
truyền hình (Television Documentary), Trò 
chơi truyền hình (Game Show), Quảng cáo 
truyền hình (Television Advertising), 
Truyền hình trực tiếp (Live Television), 
Truyền hình thực tế (Reality Show). 
Trong đó, ở những thể loại báo 
truyền hình sau, NDCTTH đóng một vai 
trò quan trọng: phỏng vấn truyền hình, tọa 
đàm truyền hình, trò chơi truyền hình, 
truyền hình thực tế. 
Xét về ngôn ngữ, người ta thường 
nói “ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ 
hình ảnh và âm thanh”, nhưng nói chính 
xác thì ngôn ngữ truyền hình là dạng ngôn 
ngữ nói thành tiếng đi kèm với hình ảnh, 
thường gắn chặt với hình ảnh. 
Ngôn ngữ truyền hình có các đặc 
trưng sau: 
- Tính phổ thông: Ngôn ngữ truyền 
hình là ngôn ngữ của toàn dân, vì truyền 
hình không chỉ tập trung vào một đối tượng 
mà có rất nhiều đối tượng, tầng lớp, vùng 
miền. Sự dễ hiểu là một trong yêu cầu quan 
trọng nhất của ngôn ngữ truyền hình nói 
riêng và ngôn ngữ báo nói chung. 
- Tính chuẩn mực: Truyền hình là 
tiếng nói chính thức của một cơ quan ngôn 
luận và có tác động dư luận rất mạnh mẽ, 
chính vì thế ngôn ngữ của truyền hình cần 
phải chuẩn mực vì chỉ một lời nói sai hay 
không rõ nghĩa sẽ dễ dàng làm sai lệch vấn 
đề. 
- Tính phổ biến: Do những ưu thế về 
hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả 
năng thu hút hàng triệu người xem cùng 
một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa 
học và công nghệ, truyền hình ngày càng 
mở rộng phạm vi phủ sóng, phục vụ được 
nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, 
vùng xa. Do các đặc trưng trên, ngôn ngữ 
truyền hình cần tránh những cấu trúc câu 
phức tạp hoặc sử dụng biệt ngữ khiến 
người xem không kịp hiểu. 
1.2. Người dẫn chương trình truyền 
hình 
Người dẫn chương trình (thường gọi 
là MC, viết tắt từ chữ tiếng Anh: Master of 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 30-39 
32 
Ceremonies) là người điều khiển, dẫn dắt 
chương trình, giữ chức năng nối kết giữa 
các tiết mục, các thành phần của chương 
trình, làm cho chương trình diễn ra liền 
mạch theo kế hoạch (thể hiện trong kịch 
bản). 
Có thể chia người dẫn chương trình 
làm 4 loại sau: 
- Người dẫn chương trình sinh hoạt tập 
thể (đám cưới, tiệc liên hoan, chiêu đãi, lễ 
hội); 
- Người dẫn chương trình sân khấu; 
- Người dẫn chương trình phát thanh; 
- Người dẫn CTTH. 
Người dẫn CTTH (Television 
Presenter) là người dẫn chương trình 
chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp, ở 
trong cơ cấu tổ chức của đài truyền hình, 
hoạt động theo sự phân công của đài truyền 
hình với những kịch bản được đài truyền 
hình biên soạn. Xét về nguồn gốc, 
NDCTTH có thể là nghệ sĩ, người mẫu, ca 
sĩ, diễn viên hài, nhà báo, nhà khoa học, 
nhà chính trị nhưng tất cả họ đều có một 
điểm chung là dẫn chương trình theo kịch 
bản và sự điều phối của đài truyền hình. 
Trong tiếng Việt, trước đây, người 
dẫn chương trình được gọi là “người giới 
thiệu chương trình”. Hiện nay cũng có một 
số ý kiến cho rằng nên gọi người dẫn 
chương trình là “người điều khiển chương 
trình” thì đúng hơn. 
NDCTTH là người dẫn dắt khán giả, 
tạo nên sự kết nối xuyên suốt các tiết mục 
để đảm bảo sự liền mạch, nhất quán cho 
chương trình, gắn kết khán giả với chương 
trình, tạo sự hưng phấn, thích thú nơi khán 
giả. 
2. Lời dẫn chương trình truyền hình 
2.1. Khái niệm lời dẫn chương trình 
truyền hình 
Hiện nay, ở Việt Nam, chưa có công 
trình nào nghiên cứu sâu về lời dẫn CTTH 
và chưa có một định nghĩa thống nhất về 
khái niệm này, nên chúng tôi tạm đưa ra 
một định nghĩa như sau để tiện làm cơ sở 
triển khai các luận điểm: 
Lời dẫn CTTH (Television Program 
Introduction) là lời nói của NDCTTH khi 
NDCTTH xuất hiện trên sàn diễn và thực 
hiện vai trò dẫn dắt, giới thiệu một chương 
trình cụ thể. 
Đó là một sản phẩm ngôn ngữ do 
NDCTTH tạo ra để thực hiện các hành 
động bằng lời khi dẫn các chương trình cụ 
thể. Bằng lời dẫn chương trình, NDCTTH 
giới thiệu, điều khiển, kết nối làm cho 
chương trình diễn ra theo đúng kế hoạch. 
Lời dẫn được hiểu hẹp hơn ngôn ngữ 
của NDCTTH. Theo đặc điểm nghề 
nghiệp, ngôn ngữ NDCTTH thể hiện ở hai 
hình thức: 
+ Khi NDCTTH xuất hiện trên sàn 
diễn (và trên màn hình ti-vi). 
+ Khi NDCTTH không xuất hiện 
trên sàn diễn và cũng không có mặt trên 
màn hình ti-vi. Tức là khi NDCTTH ở hậu 
cảnh. 
Dạng ngôn ngữ thứ nhất, chúng tôi 
gọi là lời dẫn. Còn dạng thứ hai được gọi 
là lời thuyết minh (“giọng nói ngoại hình” 
– voice over) , và không nằm trong phạm 
vi nghiên cứu của bài viết này. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Thị Như Quỳnh 
33 
2.2. Các thành tố của lời dẫn chương 
trình truyền hình 
Lời dẫn CTTH không phải là một 
khối thuần nhất mà do nhiều thành tố tạo 
nên. Các thành tố cơ bản (xuất hiện nhiều, 
giữ vai trò quan trọng) trong lời dẫn của 
NDCTTH, theo cách hiểu của chúng tôi, 
gồm có 9 thành tố sau: lời chào hỏi, lời 
giới thiệu, lời phân tích – diễn giải, câu 
hỏi, hiệu lệnh, lời nhận xét – bình luận, lời 
cảm ơn, lời chuyển tiếp, lời từ biệt. Ngoài 
9 thành tố cơ bản trên, lời dẫn CTTH còn 
có 7 thành tố phụ trợ (thỉnh thoảng mới 
xuất hiện) sau: lời kể chuyện, lời chúc 
mừng, lời xin lỗi, lời đáp, lời phát biểu ý 
kiến cá nhân, lời phản bác – tranh luận, lời 
trò chuyện giữa những NDCTTH. 
Nếu phân loại theo tương quan với 
chức năng trung tâm của lời dẫn là dẫn dắt, 
giới thiệu giúp khán thính giả truyền hình 
xem và hiểu chương trình, thì 16 thành tố 
vừa nói ở trên có thể phân thành ba nhóm 
sau: 
+ Lời dẫn trực tiếp, gồm 2 thành tố: 
lời giới thiệu, lời chuyển tiếp. 
+ Lời dẫn gián tiếp bậc một, gồm 2 
thành tố: câu hỏi, hiệu lệnh. 
+ Lời dẫn gián tiếp bậc hai, gồm 12 
thành tố: lời chào hỏi, lời phân tích – diễn 
giải, lời kể chuyện, lời nhận xét – bình 
luận, lời cảm ơn, lời chúc mừng, lời xin lỗi, 
lời đáp, lời phát biểu ý kiến cá nhân, lời 
phản bác – tranh luận, lời trò chuyện giữa 
những NDCTTH, lời từ biệt. 
Một số người cho rằng lời trò chuyện 
giữa NDCTTH không phải là lời dẫn. 
Nhưng qua ví dụ sau đây, chúng ta thấy lời 
trò chuyện giữa hai NDCTTH đã gián tiếp 
thông báo về đặc điểm của chương trình: 
(1) Trấn Thành: Đêm nay Vy Oanh 
có hồi hộp lắm không? 
Vy Oanh: Rất là hồi hộp. Không, 
không biết sao mình không phải là thí sinh 
của chương trình mà rất là hồi hộp. Có lẽ 
là bởi vì sau đêm nay thì tất cả chúng ta sẽ 
phải tạm chia tay với chương trình. 
(Trấn Thành – Vy Oanh, VTV3, 
Chung kết Cặp đôi hoàn hảo 2013, 12-05-
2013) 
Các thành tố của lời dẫn, trong một 
lời thoại, có thể hòa trộn với nhau, nhưng 
vẫn có những dấu hiệu hình thức và chức 
năng để phân biệt. Ví dụ, trong lời dẫn sau 
đây, chúng ta thấy lời chào mừng, chúc sức 
khỏe kết hợp với lời giới thiệu chương 
trình: 
(2) Chào mừng quý vị đến với 
chương trình “Vầng trăng cổ nhạc” đặc 
biệt, chương trình “Vầng trăng cổ nhạc” 
thứ 100. 
Chương trình do Ban Văn nghệ, Đài 
Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh thực 
hiện, được truyền hình trực tiếp từ sân 
khấu nhạc nước, Công viên Văn hóa Đầm 
Sen. 
Lời đầu tiên cho phép chúng tôi, La 
Thoại Phi và Quế Trân, thay mặt những 
người thực hiện chương trình, thay mặt tất 
cả những nghệ sĩ tham gia chương trình, 
xin gửi đến quý vị lời chúc sức khỏe và lời 
chào trân trọng. 
(La Thoại Phi – Quế Trân, HTV9, 
Vầng trăng cổ nhạc 100, 2009) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 30-39 
34 
Bảng 1. Các thành tố của lời dẫn CTTH và chức năng 
 Chức năng 
 Các thành tố 
Thành 
tố 
cơ 
bản 
Lời 
dẫn 
trực 
tiếp 
Lời dẫn 
gián tiếp 
Dạng thức 
ngôn ngữ1 
Bậc 
1 
Bậc 
2 
Độc 
thoại 
Đối 
thoại 
Lời chào hỏi x x x 
Lời giới thiệu x x x 
Lời phân tích – diễn giải x x x 
Lời kể chuyện x x 
Câu hỏi x x x 
Hiệu lệnh x x x 
Lời nhận xét – bình luận x x x 
Lời cảm ơn x x x 
Lời chúc mừng x x 
Lời xin lỗi x x 
Lời đáp x x 
Lời phát biểu ý kiến cá nhân x x 
Lời phản bác – tranh luận x x 
Lời trò chuyện giữa những 
NDCTTH 
 x x 
Lời chuyển tiếp x x x 
Lời từ biệt x x x 
2.3. Đặc điểm ngôn ngữ – giao tiếp của 
lời dẫn chương trình truyền hình 
Lời dẫn CTTH, theo chúng tôi, xét từ 
phương diện ngôn ngữ và giao tiếp, có ba 
đặc điểm cơ bản sau đây: 
2.3.1. Tính chất song trùng với hành động 
và sự kiện của chương trình 
Lời dẫn chương trình của NDCTTH 
có một điểm khác biệt cơ bản với lời thuyết 
minh (lời ngoại hình – voice over) là lời 
nói của NDCTTH xuất hiện trực tiếp và 
nói ra cùng lúc với những hành động, sự 
kiện đang diễn ra của chương trình. Đó là 
những lời giới thiệu, bình luận, giải thích 
trực tiếp của NDCTTH về sự kiện, gây sự 
chú ý, phân khích cao độ ở người nghe. 
Tính chất “trực tiếp” sống động là đặc 
điểm cơ bản nhất, phân biệt lời dẫn với lời 
thuyết minh (được lồng ghép sau) về đặc 
tính và giá trị. Một CTTH không có 
NDCTTH và lời dẫn của NDCTTH thì 
cũng chẳng khác bao nhiêu so với điện 
ảnh. Tính sống động, trực tiếp của nó bị 
mất đi rất nhiều. 
2.3.2. Tính đối thoại 
Vì NDCTTH xuất hiện trực tiếp trên 
sàn diễn, thực hiện sự giao tiếp với khán 
giả tại trường quay và khán giả đang xem 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Thị Như Quỳnh 
35 
truyền hình, nên đặc trưng đối thoại là một 
trong những đặc trưng cơ bản nhất trong 
lời dẫn của họ. Với lời dẫn CTTH, tính đối 
thoại trực tiếp của CTTH đạt ở mức cao 
nhất. Đặc trưng đối thoại của lời dẫn 
truyền hình thể hiện ở nhiều mặt, nhưng rõ 
nhất là trong những câu hỏi mang tính giao 
đãi, giao lưu giữa NDCTTH với khán giả 
truyền hình. Xem Bảng 1 ở trên, chúng ta 
thấy rằng trong 16 thành tố của lời dẫn 
CTTH thì đã có tới 10 thành tố mang tính 
đối thoại. 
2.3.3. Tính ứng khẩu 
Về nguyên tắc, lời dẫn của NDCTTH 
phải được soạn trước và nằm trong kịch 
bản của chương trình. Nhưng đó chỉ là 
“phần cứng”. Vì tình huống đối thoại 
truyền hình rất phong phú, đa dạng và hay 
thay đổi so với dự kiến ban đầu, nên tính 
chất ứng khẩu, ứng biến của lời dẫn là một 
yêu cầu không thể thiếu được. Chính “phần 
mềm” sáng tạo này của lời dẫn là chỗ phân 
biệt một NDCTTH tài năng với những 
NDCTTH máy móc, học thuộc lòng vở 
diễn. Hai NDCTTH nổi tiếng phía Nam là 
Thanh Bạch và Trấn Thành đều rất giỏi về 
nghệ thuật biến báo, thêm thắt này. Một 
trong những kĩ năng cao nhất của nghệ 
thuật ứng biến là kĩ năng xử lí sự cố. Câu 
chuyện sau đây về lời dẫn của Thanh Bạch 
cho chúng ta thấy vì sao nghệ sĩ này được 
nhiều người hâm mộ: 
“Trong đêm chung kết cuộc thi Bước 
nhảy Hoàn vũ 2010, theo kế hoạch, diễn 
viên Ngô Thanh Vân sẽ được treo lên trần 
sân khấu trong thời gian chiếu phim, dứt 
phim nhạc vào, cô sẽ từ trên trần hạ xuống, 
trong cánh gà anh bạn Tisho sẽ chạy ra và 
bắt đầu trình diễn. Thế nhưng, khi Thanh 
Bạch vừa dứt lời, phim chưa kịp chiếu thì 
nhạc đã mở, Tisho nghe nhạc thì cầm đuốc 
bước ra trong khi Ngô Thanh Vân còn 
đang chân buộc chân níu chưa kịp treo lên. 
Để cứu nguy, Thanh Bạch tích tắc suy 
nghĩ, vụt ra sân khấu: “Chàng trai cầm 
đuốc đi đâu, tìm gì... phải chăng đi tìm 
người yêu của mình?”, rồi vội vã đến cạnh 
Tisho nói nhỏ để anh hiểu và quay lại điểm 
xuất phát. Thời gian 30 giây “hoãn binh” 
đủ để ê-kíp bên trong gỡ rối. Khán giả 
được dịp reo hò thích thú trước phần trình 
diễn ngoạn mục. Còn Thanh Bạch thở phào 
nhẹ nhõm, bởi với anh, đó là trách nhiệm: 
“Tôi vui trong cái vui chung, nghe niềm 
hạnh phúc dâng trào, mừng cho tiết mục 
thành công”. 
(Theo Dung Hoàng, MC Thanh 
Bạch: Chiều đầy màu gió, ANTG cuối 
tháng, 06-8-2014) 
2.4. Một số cách thức xây dựng lời dẫn 
chương trình truyền hình 
Một lời dẫn tốt là kết quả của nhiều 
phương diện nhưng trong đó có vai trò của 
các cách thức cấu trúc, sử dụng ngôn ngữ. 
Lời dẫn của NDCTTH có thể kiến 
trúc theo lối “cổ điển”, dùng các thủ thuật 
tu từ – biểu cảm quen thuộc. Chẳng hạn: 
+ Dùng cách nói bóng bẩy: 
(3) Và chúng ta luôn luôn nhớ “Hãy 
nêm một chút yêu thương, một chút lãng 
mạn và một chút hài hước vào bữa cơm gia 
đình, chắc chắn nơi đó sẽ bình yên và hạnh 
phúc. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 30-39 
36 
(Quyền Linh, HTV7, Bữa cơm gia 
đình, kì 1) 
+ Vận dụng văn thơ, lời bài hát, câu 
nói dí dỏm: 
(4) Thưa quý vị và các bạn! Không 
có tình thương nào có thể so sánh với tình 
thương của cha của mẹ, và cũng không có 
nỗi đau nào to lớn hơn nỗi đau mất cha 
mất mẹ. Ông bà ta thường nói: Có cha có 
mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như 
đờn đứt dây, Đờn đứt dây còn xoay còn 
nối, Con mất cha mẹ, con phải mồ côi. 
Vâng, thưa quý vị, trong cuộc sống của 
chúng ta không thể thiếu được cha mẹ, và 
với bé Duyên cũng vậy, tuổi thơ của em 
cũng cần có cha mẹ bên cạnh để yêu 
thương 
(Anh Quân, HTV, Chắp cánh tương 
lai, 08-3-2012) 
+ Dùng thành ngữ, tục ngữ: 
(5) Thưa quý vị, có những người 
chồng ra đi chinh chiến mãi mãi không bao 
giờ trở về. Có những người vợ một đêm 
sau khi nghe tin chồng mất, trong vòng một 
đêm tóc đã bạc trắng, người ta gọi là “tâm 
sầu bạch phát”2. 
Và chúng tôi mời quý vị và cách bạn 
hãy cùng lắng nghe câu chuyện bi thương 
này qua giọng kể bằng một bài hát, một 
trong những tác phẩm thật lớn, thật kinh 
điển của Việt Nam chúng ta, thưa quý vị, 
Dạ cổ hoài lang. 
(Trấn Thành, VTV3, Cặp đôi hoàn 
hảo, 10-03-2013) 
+ Dùng lời dẫn bằng câu nói có vần: 
(6) Và chương trình “Chuyện đêm 
muộn” là một chương trình khá là hot, về 
những đề tài nóng bỏng, những cái đề tài 
mà phụ nữ chúng ta rất quan tâm, những 
điều đôi khi muốn tỏ nhưng rất ngại ngỏ 
lời. 
(Yến Trang, VTV3, Chuyện đêm 
muộn: Tình không biên giới, 2012) 
+ Dùng thủ pháp treo, gây tò mò: 
(7) Chào mừng các bạn đến với 
chương trình “Ngôi sao ước mơ”. 
Và ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng 
trò chuyện với một cô gái rất nhỏ nhắn dễ 
thương, rất đáng yêu. Và câu chuyện của 
cô ấy như là một câu chuyện cổ tích vậy. 
Nhưng cô ấy lại là một gương mặt rất là 
thân quen. 
Các bạn có đoán ra được đó là nhân 
vật nào không ạ? 
Chúng ta hãy cùng xem clip sau đây 
nhé! 
(Bạch Dương, VTV6, Ngôi sao ước 
mơ – Khách mời) 
+ Khai thác tình huống đặc biệt của 
chương trình 
(8) Dạ thưa anh Ái ạ, cho phép 
Quỳnh Hương xin được hỏi anh một số 
điều được không ạ? 
Trong nhà người ta nói là thường 
thường chỉ có một người giám đốc thôi, 
nhưng mà chị đã là giám đốc, anh cũng là 
một giám đốc, vậy thì trong nhà hai giám 
đốc, ai chỉ huy ai đây ạ? 
(Quỳnh Hương, HTV, Trò chuyện 
cuối tuần: Nói về đồ chơi bằng gỗ, 2010) 
Lời dẫn của NDCTTH cũng phải 
luôn đổi mới, tìm tòi những cách thức cấu 
trúc, lập ý mới lạ, chẳng hạn cách dẫn dùng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Thị Như Quỳnh 
37 
“Trò chơi định nghĩa” (Biên giới trong tình 
yêu là) của Yến Trang sau đây: 
(9) – Yến Trang: Thế thì bây giờ mọi 
người đang rất thoải mái, chúng mình sẽ 
bắt đầu bằng một trò chơi nho nhỏ, chính 
là mỗi người sẽ phải nói về Biên giới trong 
tình yêu, nhưng mà chắc chắn là cái cái 
từ Biên giới trong tình yêu này khi chúng 
ta nói ra thì không được trùng lắp với nhau 
nhé. Và bắt đầu từ Trang nhé. Biên giới 
trong tình yêu của Trang đó chính là là 
Tuổi tác. 
– Khách mời 1: Theo Nhung đó 
là Gia cảnh. 
– Khách mời 2: Trang nghĩ đó là 
Khoảng cách địa lí. 
– Khách mời 3: Tài nghĩ đó là 
Giới tính 
– Một số người: O o o ho ho 
ho 
(Yến Trang, VTV3, Chuyện đêm 
muộn: Tình không biên giới, 2012) 
Ngoài ra có thể kể thêm một số thủ 
pháp khác như: dùng dẫn nhập theo kiểu 
tương phản, dùng lối nói nghịch lý, dùng 
cách nói có thể tiếp tục bằng 2-3 phương 
án, dùng câu hỏi nêu vấn đề, dùng mẩu 
chuyện vui, dùng cách lạc đề có chủ ý, 
dùng thủ pháp kẻ tung người hứng (khi dẫn 
đôi) 
2.5. Vai trò của lời dẫn trong chương 
trình truyền hình 
Trước đây, người dẫn chương trình 
(với tên gọi “người giới thiệu chương 
trình”) có vai trò rất khiêm tốn trong buổi 
trình diễn. Theo Thanh Bạch, kiểu lời dẫn 
chương trình tiêu biểu những năm sau 1975 
là người giới thiệu chương trình bước ra 
chính giữa sân khấu, có micro dựng sẵn, 
chân đứng chữ bát, và nói: 
(10) Hòa bình rồi, ai mà không ca 
không múa. Đơn ca nữ sau đây biểu diễn 
bài: Tiếng chày trên sóc Bom Bo của nhạc 
sĩ Xuân Hồng. Biên đạo múa: Thái Ly. 
Đệm pi-a-nô: Hoàng Mạnh. Tiết mục ca 
múa bắt đầu. 
(Theo Thanh Bạch, Video Học làm 
MC, Khóa học Dẫn chương trình dành cho 
tu sĩ Phật giáo, Thiền viện Vạn Hạnh, 
2006) 
Lời dẫn chương trình khi đó chỉ đơn 
thuần có nhiệm vụ thông tin tên bài hát, tên 
ca sĩ, ai đệm nhạc, ai hòa âm phối khí, ai là 
biên đạo múa, ai thực hiện, ai biểu diễn. 
Chức năng của nó chỉ là chức năng thông 
tin và chấm hết. 
Ngày nay, trong một CTTH, lời dẫn 
phải có chức năng giúp NDCTTH thể hiện 
vai trò giới thiệu, điều khiển, dẫn dắt, làm 
cầu nối cho chương trình vận động theo kế 
hoạch, ý đồ của đạo diễn. 
Lời dẫn có thể dùng để kể câu 
chuyện, dùng để dự báo, định hướng, 
chuẩn bị tâm thế cho người tiếp nhận, dùng 
để liên kết các tiết mục. 
Lời dẫn CTTH, cũng giống như dẫn 
đề, lời mào đầu (Lead, Chapeau) trong báo 
in, là “cái thần” của buổi trình diễn, là “bức 
thông điệp rút gọn” của buổi diễn, là cánh 
cửa mở ra để mời gọi khán thính giả theo 
dõi các tiết mục sẽ trình diễn. Lời dẫn có 
tác dụng níu kéo bước chân của khán thính 
giả, giữ họ ở lại với chương trình. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 30-39 
38 
Lời dẫn phải thích ứng với từng loại 
chương trình. Với Game Show, lời dẫn 
phải vui nhộn, tươi trẻ, sống động. Với 
chương trình “Chúng tôi là chiến sĩ”, lời 
dẫn phải nhanh nhẹn, hoạt bát, quyết đoán, 
tự tin. Có chương trình dành nhiều không 
gian cho NDCTTH thể hiện, có chương 
trình NDCTTH đóng một vai trò khiêm 
tốn, dành sân khấu chính cho khách mời 
(như “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời”). 
Lời dẫn CTTH với hình ảnh, âm 
thanh trong tác phẩm truyền hình phải hài 
hòa, bổ sung cho nhau và tôn nhau lên. Tác 
phẩm truyền hình “không phải là một hình 
ảnh có âm thanh được phủ lên một lời 
bình” [Brigitte Besse – Didier Desormeaux 
2003, 62]. Những hình ảnh đặc biệt có thể 
bị phá hỏng bởi những lời dẫn dài lê thê. 
Lời dẫn chỉ nói những cái gì khán thính giả 
chưa biết về hình ảnh (những cái mà hình 
ảnh chưa thể diễn tả hết được) chứ không 
phải chính nội dung của những hình ảnh 
đó. Một từ vô nghĩa không còn là thông tin 
mà trở thành tạp âm hay một tiếng ồn đối 
với người nghe. Hình ảnh trong truyền 
hình chính là một hệ thống tín hiệu, nhưng 
đó là hệ thống tín hiệu thứ nhất, trực quan. 
Thông tin do hệ thống tín hiệu hình ảnh 
mang lại thường chưa xác định, thiếu chiều 
sâu hoặc chưa rõ những nhân tố như “ở 
đâu” (where), “lúc nào” (when), “tại sao” 
(why), “như thế nào (how), “quan hệ” 
(relation), nên lời dẫn phải làm sáng rõ 
những nội dung đó, cung cấp cho khán 
thính giả một cái nhìn đầy đủ, toàn diện, 
mạch lạc (“những khớp nối”) về tác phẩm 
truyền hình. Lời dẫn chính là hệ thống tín 
hiệu thứ hai đảm nhận chức năng giải 
thích, chức năng siêu ngôn ngữ 
(metalinguistics function) cho hệ thống tín 
hiệu hình ảnh và âm thanh của CTTH. 
3. Kết luận 
Nghề dẫn CTTH bắt buộc phải dùng 
ngôn từ, lại phải nói liên tục không nghỉ, 
không được phép để thời gian chết. Vì thế 
những cử chỉ biểu cảm, những hành động 
phi lời không đạt nhiều hiệu quả. Một 
NDCTTH không thể ê a, rề rà khi dẫn 
chương trình, mà phải hoạt ngôn, ứng biến. 
Hiển nhiên NDCTTH phải là người có tài 
ăn nói. Nhưng một lời dẫn CTTH trôi chảy, 
lưu loát hoặc bóng bẩy chưa chắc chắn 
giúp buổi diễn thành công, vì ngoài những 
yêu cầu đó ra, lời dẫn phải có chiều sâu 
thông tin, có nhiều cách thức cấu trúc sáng 
tạo và đảm bảo các nguyên tắc của một 
CTTH (tính hình ảnh, trực tiếp, đối thoại). 
Vì vậy, ngoài những năng khiếu thiên phú, 
NDCTTH còn phải biết vận dụng các thủ 
thuật nghệ thuật về xây dựng lời dẫn và thể 
hiện lời dẫn sao cho sinh động, hấp dẫn, 
linh hoạt, uyển chuyển, bóng bẩy hoặc cô 
đọng, giản dị trong những tình huống 
truyền hình cần thiết. Việc nắm vững các 
đặc điểm của lời dẫn CTTH (trong sự phân 
biệt với lời bình, lời thuyết minh truyền 
hình) cùng với những cách thức xây dựng 
lời dẫn là hết sức cần thiết để NDCTTH 
thiết kế lời dẫn của mình khoa học và nghệ 
thuật hơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Thị Như Quỳnh 
39 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Anh (2004), “Ngôn ngữ của người dẫn chương trình trò chơi trên truyền hình”, Tạp 
chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11/2004. 
2. Brigitte Besse – Didier Desormeaux (2003), Phóng sự truyền hình, Nxb Thông tấn. 
3. Nguyễn Đức Dân (2007), Ngôn ngữ ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục. 
4. Vũ Quang Hào (2009), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thông tấn. 
5. Trịnh Vũ Hoàng Mai (2011), Đặc điểm ngôn ngữ của dẫn đề báo chí tiếng Việt, Luận văn 
Thạc sĩ, Trường Đại học KHXH&NV TPHCM. 
6. Lê Thị Như Quỳnh (2011), Lời dẫn và câu hỏi của người dẫn chương trình truyền hình 
(Khảo sát trên các chương trình tọa đàm của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh), 
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học KHXH&NV TPHCM. 
7. Dương Xuân Sơn (2009), Giáo trình Báo chí truyền hình, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
1 Xét theo khuynh hướng thiên về ngôn ngữ độc thoại hay đối thoại. 
2 Tâm sầu bạch phát: lòng buồn tóc bạc. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_cua_loi_dan_chuong_trinh_truyen_hinh.pdf