Truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam

Truyền hình là loại hình truyền thông quan

trọng, phổ biến, có lượng khán giả vượt trội

so với các loại hình truyền thông khác ở

Việt Nam hiện nay. Dân tộc Tày và dân tộc

Nùng có số dân thuộc nhóm đông nhất

trong số các DTTS của Việt Nam. Hai dân

tộc này chủ yếu cư trú ở miền Bắc, có ảnh

hưởng lớn (trong đó có ảnh hưởng về ngôn

ngữ) đến các dân tộc khác sống cùng khu

vực. Dân tộc Tày và dân tộc Nùng có nhiều

điểm gần gũi nhau về ngôn ngữ, văn hóa

nghệ thuật, văn hóa tâm linh. Ở những nơi

có cả người Tày và người Nùng sinh sống,

ngôn ngữ ở nhiều người Tày có thể pha

tiếng Nùng và ngược lại.

pdf 9 trang dienloan 4740
Bạn đang xem tài liệu "Truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam

Truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam
 113 
Truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam 
Nguyễn Thị Nhung1 
1 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên. 
Email: nhungsptn@gmail.com 
Nhận ngày 6 tháng 3 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 5 tháng 5 năm 2019. 
Tóm tắt: Hoạt động truyền hình bằng tiếng Tày - Nùng là một hoạt động truyền thông cơ bản, 
phục vụ được rất đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Hình thức và nội dung chương trình 
truyền hình tiếng Tày - Nùng của các đài phát thanh - truyền hình (PT-TH) đã có nhiều đổi mới, 
song vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần có những giải pháp nâng cao chất lượng 
các chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Tiếng Tày - Nùng, truyền hình, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Báo chí học 
Abstract: Television broadcasting in the languages of Tay and Nung ethnic minority groups is a 
fundamental activity of communication, serving a large number of ethnic minority people. The 
form and content of the television programmes broadcast in the languages by radio and television 
stations have been strongly renovated, but there are still inadequacies and limitations. Therefore, 
measures should be taken to improve the quality of television programmes in Vietnam today. 
Keywords: Tay and Nung languages, television broadcasting, Vietnam. 
Subject classification: Journalism 
1. Mở đầu 
Truyền hình là loại hình truyền thông quan 
trọng, phổ biến, có lượng khán giả vượt trội 
so với các loại hình truyền thông khác ở 
Việt Nam hiện nay. Dân tộc Tày và dân tộc 
Nùng có số dân thuộc nhóm đông nhất 
trong số các DTTS của Việt Nam. Hai dân 
tộc này chủ yếu cư trú ở miền Bắc, có ảnh 
hưởng lớn (trong đó có ảnh hưởng về ngôn 
ngữ) đến các dân tộc khác sống cùng khu 
vực. Dân tộc Tày và dân tộc Nùng có nhiều 
điểm gần gũi nhau về ngôn ngữ, văn hóa 
nghệ thuật, văn hóa tâm linh. Ở những nơi 
có cả người Tày và người Nùng sinh sống, 
ngôn ngữ ở nhiều người Tày có thể pha 
tiếng Nùng và ngược lại. Bộ chữ Tày - 
Nùng dùng chung cho hai dân tộc dựa trên 
 Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
 114 
cơ sở chữ Latinh ra đời từ năm 1960. Từ 
đó, hình thành khái niệm “tiếng Tày - 
Nùng” dùng trong giáo dục phổ thông, và ở 
đài phát thanh Khu tự trị Việt Bắc một thời 
cùng với một số đài PT-TH hiện nay. 
Nghiên cứu về truyền hình tiếng Tày - 
Nùng có tầm quan trọng đặc biệt, có liên 
quan đến cả hai lĩnh vực là khoa học báo 
chí và khoa học ngôn ngữ. Nghiên cứu này 
dựa trên việc khảo sát, phỏng vấn 11 người 
làm chương trình thuộc Đài PT-TH Lạng 
Sơn, Cao Bằng; khảo sát, phỏng vấn 105 
người Tày, Nùng ở Lạng Sơn, Cao Bằng về 
việc tiếp nhận truyền hình tiếng Tày - 
Nùng. Bài viết* này phân tích thực trạng 
truyền hình tiếng Tày - Nùng; nêu những 
thách thức và đề xuất giải pháp góp phần 
nâng cao chất lượng truyền hình tiếng Tày - 
Nùng ở Việt Nam hiện nay. 
2. Thực trạng truyền hình tiếng Tày - Nùng 
2.1. Hình thức truyền hình tiếng Tày - Nùng 
Thứ nhất, về thể loại, các chương trình 
tiếng Tày - Nùng không được phát hàng 
ngày, các thông tin đưa ra không thể đảm 
bảo tính thời sự nên thể loại được sử dụng 
phổ biến là phóng sự. Chương trình truyền 
hình tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng 
Sơn chỉ phát các phóng sự. Mỗi chương 
trình phát 6-7 phóng sự. Những phóng sự 
này phục vụ cho các chuyên mục cụ thể, 
ngoài ra có thêm một chương trình văn 
nghệ 30 phút. Chương trình truyền hình 
tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Cao Bằng 
và Đài PT-TH Bắc Kạn dùng cả thể loại tin 
và thể loại phóng sự. Ở Đài PT-TH Cao 
Bằng, mỗi chương trình có khoảng 3-4 tin, 
bài. Các phóng sự thường dài hơn các 
phóng sự của Đài PT-TH Lạng Sơn và 
không được xếp vào các chuyên mục. 
Chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng 
của Đài PT-TH Bắc Kạn (gọi là Tạp chí 
Dân tộc và Phát triển) gồm khoảng 3 đến 4 
phóng sự, cuối chương trình, có thêm mục 
Văn nghệ (khoảng 5-8 phút). 
Thứ hai, về kết cấu, ngoài phần hình 
hiệu chương trình (30 giây), phần phát 
thanh viên chào kết (15 giây) thì phần còn 
lại của các đài không giống nhau. Ở Đài 
PT-TT Lạng Sơn, sau hình hiệu có 30 giây 
cho việc giới thiệu các nội dung chính của 
chương trình. Sau đó là hình hiệu các 
chuyên mục. Các chuyên mục này được 
phân phối theo số buổi trong tuần. Mỗi 
chuyên mục được thể hiện qua một vài 
phóng sự. Mỗi phóng sự bắt đầu bằng sự 
xuất hiện của hình ảnh phát thanh viên 
(Bảng 1). 
Ở Đài PT-TH Bắc Kạn, sau phần hình 
hiệu có phần giới thiệu nội dung chính, 
không có các chuyên mục. Ở Đài PT-TH 
Cao Bằng, thiếu phần giới thiệu nội dung 
chính, cũng không có các chuyên mục; mỗi 
tin, bài được đánh dấu bằng sự xuất hiện trở 
lại của hình ảnh phát thanh viên. 
Như vậy, thể loại được sử dụng trong 
các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng chưa phong phú, còn vắng bóng 
những thể loại có chất tư duy, trí tuệ, lí luận 
cao như nhóm báo chí chính luận (xã luận, 
bình luận, điều tra, phê bình) hay các thể 
loại có tính sinh động hơn (tiểu phẩm báo 
chí, câu chuyện báo chí...). Kết cấu chương 
trình của Đài PT-TH Lạng Sơn phong phú, 
sáng rõ; ở các đài còn lại, chưa thật sáng rõ, 
còn khiến người xem khó theo dõi. 
 115 
Thứ ba, về hình thức lời bình. Qua khảo 
sát, ngữ âm không được nhiều người quan 
tâm, tỉ lệ người được hỏi đánh giá tích cực 
dưới 50% (Bảng 2). 
Bảng 1: Các chuyên mục trong truyền hình tiếng Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng Sơn [5] 
STT Tên chuyên mục (tiếng Việt) Tên chuyên mục (tiếng Tày- Nùng) Phân bố 
1 Đảng trong cuộc sống hôm nay Tẳng có Đảng chang slì tối mấư Thứ ba 
2 Thông tin thị trường vùng cao Pỉ noọng chang bản khai dự cúa cái Thứ ba 
3 Gốc tích quê hương Cốc co bản cỏn Thứ ba 
4 Pháp luật với bà con Pỉ noọng xa chắc mừa pháp luật Thứ ba 
5 Tiếng nói từ thôn bản Slim châư cúa cần kha bản Thứ năm 
6 Cùng làm nông nghiệp Xày căn đăm chay, khun chượng Thứ năm 
7 Nét đẹp làng quê Bản cỏn đây mjảc Thứ năm 
8 Những bài thuốc hay trong dân gian Ký co nhả chỏi pỉnh Thứ năm 
9 Nông thôn đổi mới Bản cỏn lầu tối mấư Thứ bảy 
10 Vì chủ quyền an ninh biên giới Ngòi chướng đin tỉ piên chái Thứ bảy 
 11 Ẩm thực xứ Lạng Ký thình cuá kin Xứ Lạng Thứ bảy 
 12 Gương sáng bản làng Đuông bjoóc đây cúa bản (Boỏng 
cương cúa bản ) 
Thứ bảy 
Bảng 2: Nhận xét về giọng của phát thanh viên trong các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng [5] 
Tốc độ Giọng chuẩn Hay Có pha giọng Thực trạng/ 
Các nhóm 
Nhanh Chậm Vừa Đúng Không Đúng Không Đúng Không 
 Đài VTV5 18 11 33 49 1 
30 3 34 12 
 Đài tỉnh 17 9 35 48 8 51 3 23 18 
Tổng 2 nhóm 35 20 68 97 9 81 6 57 30 
Tỉ lệ (%) 17 9,5 32 46 4,3 39 2,9 27 14 
Ở các đài PT-TH tỉnh, giọng phát thanh 
viên gần gũi với người dân hơn nên nhìn 
chung được đánh giá tốt hơn. Đa số người 
được phỏng vấn cho rằng, giọng của phát 
thanh viên người Tày hay người Nùng ở 
đây đều không còn thuần là âm Tày hay 
Nùng nữa, mà đã bị pha giữa hai ngôn ngữ, 
hoặc đã pha giọng Kinh. 
 Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
 116 
Bảng 3: Nhận xét về từ ngữ trong các chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng [5] 
Dễ hiểu Chính xác Nhiều từ ngữ 
vay mượn 
Thực trạng/ 
 Các đài Đúng Không 
đúng 
Đúng Không 
đúng 
Đúng Không 
đúng 
VTV5 56 7 67 4 51 7 
Đài tỉnh 60 2 42 1 43 5 
Tổng 2 nhóm 116 9 109 5 94 12 
Tỉ lệ (%) 55,2 4,3 52,0 2,4 44,8 5,7 
Bảng 3 cho thấy, hầu hết người được hỏi 
đều cho rằng, từ ngữ vay mượn trong các 
chương trình còn nhiều. Xét theo cấp truyền 
thông thì đài địa phương có thế mạnh hơn 
về tính dễ hiểu và ít từ ngữ vay mượn, 
nhưng đài trung ương lại có thế mạnh về 
tính chính xác trong việc sử dụng từ ngữ. 
Phương diện được đồng bào Tày, Nùng 
đánh giá cao nhất là việc dùng câu. 
Bảng 4: Tự đánh giá của người làm chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng về cách sử dụng 
ngôn ngữ [5] 
Các phương diện Tốt Trung bình Chưa tốt 
a. Độ chính xác 4 7 0 Ngữ âm 
b.Tính truyền cảm 5 6 0 
a.Từ ngữ vay mượn 0 10 1 Từ vựng 
b.Tính sinh động, giàu hình ảnh 4 6 1 
a. Đúng ngữ pháp 8 2 1 Câu - ngữ pháp 
b. Câu ngắn gọn, súc tích 5 5 1 
a. Chặt chẽ 4 6 1 Diễn ngôn 
b. Kết cấu không đơn điệu 3 7 1 
a. Phù hợp với cách nói năng của 
đồng bào 
7 3 1 Phong cách 
b. Phù hợp với nội dung nói 6 4 1 
Tổng 46/110 56/110 8/110 
Tỉ lệ (%) 41,8 50,9 7,3 
Nguyễn Thị Nhung 
 117 
Bảng 4 cho thấy, những người được hỏi 
không đánh giá cao hình thức của lời bình 
trong các chương trình mà mình sản xuất. 
Trong đó, tiêu chí được đánh giá cao hơn 
cả cũng là tính đúng ngữ pháp của câu, 
tính phù hợp cách nói năng của đồng bào 
ở mặt phong cách ngôn ngữ. Đây là sự 
đánh giá thống nhất với sự đánh giá của 
người tiếp nhận. Các Đài PT-TH Lạng 
Sơn, Cao Bằng có dùng phụ đề tiếng Việt, 
điều này tạo điều kiện cho những người 
Tày - Nùng chưa thạo tiếng mẹ đẻ có thể 
hiểu được nội dung chương trình, đối 
chiếu phần chữ với phần lời để trau dồi 
tiếng mẹ đẻ. Tuy vậy, Đài PT-TH Bắc Kạn 
lại thiếu phần phụ đề này. 
2.2. Nội dung của các chương trình truyền 
hình tiếng Tày - Nùng 
Nội dung chương trình truyền hình tiếng 
Tày - Nùng của Đài PT-TH Lạng Sơn đã 
mang tính toàn diện. Tuy nhiên, trong 
chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng 
của các đài tỉnh nói chung, nội dung nổi bật 
được thể hiện là thông tin về mọi mặt của 
địa phương. Đài PT-TH Lạng Sơn và Đài 
PT-TH Bắc Kạn có thêm chương trình văn 
nghệ. Ở những đài khác, việc phổ biến kiến 
thức, thông tin về chính sách, pháp luật 
chưa được chú trọng. Các thông tin trên 
cùng những thông tin thời sự đất nước, kinh 
nghiệm làm giàu, kĩ năng sống có thể được 
thể hiện rải rác qua các tin bài (Bảng 5). 
Bảng 5: Hứng thú của người tiếp nhận với nội dung các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng [5] 
Rất thích Thích Không thích Mức độ/ 
Nội dung Số lượng Tỉ lệ 
(%) 
Số lượng Tỉ lệ 
(%) 
Số lượng Tỉ lệ 
(%) 
Tin tức thời sự đất nước 58 27,6 44 21,0 0 
Tin tức thời sự địa phương 60 28,6 39 18,6 1 0,1 
Kĩ thuật nông nghiệp 42 20,0 40 19,0 5 0,6 
Kinh nghiệm làm giàu 44 21,0 40 19,0 5 0,6 
Chính sách, pháp luật 51 24,3 43 20,5 1 0,1 
Sức khỏe 61 29,0 54 25,7 0 0,0 
Kĩ năng sống 41 19,5 38 18,1 4 0,5 
Văn hóa, văn nghệ 60 28,6 33 15,7 0 0,0 
Tổng 417/840 49,6 331/840 39,4 16/840 1,9 
Có tới 89% người được hỏi vẫn yêu thích 
các nội dung trong chương trình, hơn nửa 
trong số đó còn rất thích chương trình này. 
Tri thức về cách bảo vệ sức khỏe; văn hóa, 
văn nghệ; tin tức thời sự địa phương; tin tức 
thời sự đất nước là những nội dung được yêu 
thích hơn cả. Kĩ thuật nông nghiệp, kinh 
nghiệm làm giàu, kĩ năng sống là những nội 
dung chỉ liên quan hoặc chỉ phù hợp với một 
bộ phận người dân (người làm nông nghiệp, 
 Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
 118 
người còn sức lao động, hay những người 
còn trẻ) nên số người yêu thích ít hơn. 
Tuy nhiên, theo những người làm 
chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng, 
thì nội dung thông tin của chương trình 
chưa phải đã có được chất lượng cao nhất 
(Bảng 6). 
Bảng 6: Tự đánh giá của người làm chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng về chất lượng nội 
dung các chương trình [5] 
Yêu cầu Tốt Trung 
bình 
Chưa 
tốt 
a- Hướng về cơ sở, chú trọng sự kiện, thông tin thời sự và những 
thông tin về đời sống dân sinh của đồng bào DTTS 
6 5 0 
b- Tuyên truyền các chủ trương, chính sách dân tộc và việc thực 
hiện chính sách dân tộc, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã 
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh 
8 3 0 
c- Thông tin chỉ dẫn mang tính khoa giáo về khuyến nông, 
khuyến lâm, khuyến ngư, y tế, sức khỏe gắn với địa phương, đặc 
điểm văn hóa của đồng bào 
6 5 0 
d- Nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các vấn đề phù hợp với đặc 
điểm tâm lí, truyền thống dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của từng 
đối tượng đồng bào 
3 6 2 
e- Chú trọng biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, nhân 
tố tích cực trên các lĩnh vực đời sống trong vùng dân tộc 
9 2 0 
f- Ca nhạc, giải trí có chất lượng, phù hợp nhu cầu của đồng bào 5 4 2 
Tổng 37/66 25/66 4/66 
Tỉ lệ (%) 56,1 37,9 6,0 
Nhìn chung, nội dung biểu dương, nhân 
rộng các điển hình tiên tiến, nhân tố tích 
cực được chú trọng. Tiếp theo là việc tuyên 
truyền các chủ trương, chính sách dân tộc 
và việc thực hiện chính sách dân tộc, gắn 
với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, đảm 
bảo quốc phòng, an ninh. Việc nhìn nhận, 
đánh giá, giải quyết các vấn đề phù hợp với 
đặc điểm tâm lí, truyền thống dân tộc, tín 
ngưỡng, tôn giáo của từng đối tượng đồng 
bào còn chưa thật tốt. Việc hướng về cơ sở, 
chú trọng sự kiện, thông tin thời sự và 
những thông tin về đời sống dân sinh của 
đồng bào DTTS và việc thông tin chỉ dẫn 
mang tính khoa giáo về khuyến nông, 
khuyến lâm, khuyến ngư, y tế, sức khỏe gắn 
với địa phương, đặc điểm văn hóa của đồng 
bào mới chỉ đạt được phần nào. Tiêu chí ca 
nhạc, giải trí có chất lượng, phù hợp nhu cầu 
của đồng bào cũng còn hạn chế. 
3. Những thách thức truyền hình tiếng 
Tày - Nùng 
Thứ nhất, kinh phí hạn chế. Hiện nay, các 
nhà đài đang chuyển sang cơ chế tự chủ về 
tài chính, điều kiện kinh phí cho việc sản 
Nguyễn Thị Nhung 
 119 
xuất các chương trình, bồi dưỡng và phát 
triển nhân lực của các phòng trong mỗi đài 
đều hạn chế. Các phòng Tiếng dân tộc càng 
khó khăn hơn vì các phòng này hầu như 
không có điều kiện cải thiện thu nhập, trong 
khi cần những đầu tư đáng kể cho việc đi 
lấy tin bài ở địa bàn vùng cao. Đây là 
nguyên nhân khiến chương trình truyền 
hình tiếng Tày – Nùng không được mở rộng 
về thời lượng, tần suất, không được ưu tiên 
về khung giờ phát sóng. Không có lương 
chi trả khiến biên chế người làm việc bị thu 
hẹp, công việc căng thẳng, người làm ít 
được bồi dưỡng chuyên môn. Các đài thiếu 
phóng viên người Tày, Nùng để có thể lựa 
chọn, nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các 
vấn đề phù hợp với đặc điểm tâm lí, truyền 
thống của đồng bào. Thậm chí có đài, phát 
thanh viên không có điều kiện dịch trước, 
phải đọc từ tiếng Việt sang tiếng Tày - 
Nùng trong lúc lên sóng. Chế độ đãi ngộ 
thấp cũng dẫn tới tình trạng năng lực, tâm 
huyết của người làm không được phát huy 
tốt, kéo theo những hạn chế về chất lượng, 
hiệu quả chương trình. 
Thứ hai, tiếp nhận chương trình bằng 
tiếng mẹ đẻ. Thách thức đặt ra với truyền 
hình tiếng Tày - Nùng là sự mai một ngôn 
ngữ Tày, Nùng ở lớp trẻ, chữ viết chưa phổ 
biến. Do không nắm vững ngôn ngữ nên 
nhiều người, nhất là lớp trẻ không mặn mà 
tiếp nhận các chương trình truyền hình bằng 
tiếng mẹ đẻ. Các biên dịch viên, phát thanh 
viên chủ yếu cũng là những người còn trẻ, 
vốn ngôn ngữ mẹ đẻ còn hạn chế, hầu hết 
không biết chữ Tày - Nùng, lại từng thoát li 
bản làng để đi học tập lâu dài; trong khi, để 
làm tốt chương trình, họ còn phải thạo cả 
hai thứ tiếng Tày và Nùng. Người kiểm 
duyệt chương trình không biết tiếng Tày - 
Nùng thường đòi hỏi tin bài phải được viết 
bằng tiếng Việt. Điều đó hạn chế việc 
phóng viên người Tày, Nùng có thể viết tin, 
bài bằng ngôn ngữ của dân tộc mình, để sự 
diễn đạt chuẩn hơn, mềm mại hơn, và bớt 
được khâu dịch thuật. 
4. Giải pháp nâng cao chất lượng truyền 
hình tiếng Tày - Nùng 
Đối với các cấp lãnh đạo truyền thông 
DTTS, cần có sự nhận thức rõ và đúng đắn 
về tầm quan trọng của chương trình, trên cơ 
sở đó có được những chính sách phù hợp. Ở 
cấp trung ương có thể có chương trình 
chuyên Tày và chuyên Nùng nhưng ở cấp 
tỉnh trở xuống, nên có chủ trương duy trì, 
mở rộng truyền hình tiếng Tày - Nùng tới 
tất cả các tỉnh có đông đảo người của cả hai 
dân tộc này. Vì việc dùng ngôn ngữ chung 
giúp tiết kiệm nhân lực, vật lực và phục vụ 
được đông đảo đồng bào của hai dân tộc 
Tày - Nùng cùng nhiều dân tộc khác sống 
xen kẽ, biết tiếng Tày - Nùng. Nên khuyến 
khích mở rộng truyền hình tiếng Tày - 
Nùng tới cấp huyện. Kết quả khảo sát cho 
thấy, truyền hình nói riêng, truyền thông 
dân tộc nói chung càng ở cấp thấp càng có 
hiệu quả vì sự gần gũi của ngôn ngữ, sự 
thiết thực của nội dung. 
Đầu tư hơn nữa trang thiết bị kỹ thuật, 
phương tiện làm việc cho các đài, đặc biệt 
là cho các phòng Tiếng dân tộc; tăng cường 
chất lượng phát sóng, diện phủ sóng tới 
vùng sâu, vùng xa cho các đài. 
Có chế độ đãi ngộ phù hợp với tính chất 
công việc của người làm chương trình Tiếng 
dân tộc; quan tâm hơn tới công tác đào tạo, 
bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí cho họ. 
Có hình thức giảng dạy, bồi dưỡng tiếng 
mẹ đẻ cho người DTTS, trong đó có lớp trẻ 
 Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019 
 120 
người Tày, Nùng; và người làm công tác 
truyền thông bằng tiếng Tày - Nùng. 
Đối với các Đài PT-TH, cần sự quan tâm 
đầu tư hơn nữa của lãnh đạo Đài đối với 
chương trình và sự nỗ lực của mỗi người 
thực hiện. Cần ưu tiên về biên chế phóng 
viên, biên dịch viên, phát thanh viên người 
Tày, Nùng cho phòng Tiếng dân tộc, quan 
tâm xây dựng đội ngũ kiểm thính viên, 
cộng tác viên cho chương trình. Ưu tiên về 
khung giờ phát sóng để bà con có thể theo 
dõi được, và tăng cường tần suất, thời 
lượng hơn nữa cho các chương trình truyền 
hình tiếng Tày - Nùng. Cần có sự đầu tư 
hơn cho việc thực hiện chương trình theo 
các thể loại, hình thức phong phú; tăng 
cường các hình thức tương tác; tăng cường 
tính chuẩn mực, tính hấp dẫn của việc sử 
dụng ngữ âm, từ ngữ, diễn đạt câu để tạo sự 
sinh động, mới mẻ cho các chương trình. 
Tăng cường tính chuyên biệt cho nội dung, 
bổ sung các chuyên mục, đổi mới nội dung 
bằng cách giảm bớt các tin lễ tân, hội họp 
hoặc nếu có, chỉ nên đưa ngắn gọn, đưa 
những thông tin thực sự có ý nghĩa với 
công chúng, phù hợp với tâm lý tiếp nhận 
của đồng bào; tăng cường các tin có vấn đề, 
được công chúng quan tâm; đi sâu phản ánh 
những vấn đề khó khăn, bức xúc trong đời 
sống xã hội vùng đồng bào Tày - Nùng; có 
những đề xuất, kiến nghị để các cấp các 
ngành có liên quan có giải pháp tháo gỡ, 
góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao 
đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào 
DTTS. 
5. Kết luận 
Các chương trình truyền hình tiếng Tày - 
Nùng đã đáp ứng được những yêu cầu cơ 
bản của đồng bào DTTS. Tuy nhiên, trên 
thực tế truyền hình tiếng Tày - Nùng còn 
nhiều bất cập. Nhiều chương trình truyền 
hình tiếng Tày - Nùng thiếu sự đa dạng, 
chất lượng một số chương trình chưa cao, 
tính hiệu quả và tương tác còn yếu. Các cấp 
có thẩm quyền, các ngành có liên quan cần 
thực hiện nhiều giải pháp mang tính đồng 
bộ để tăng cường tính hiệu quả, của các 
chương trình truyền hình tiếng Tày - Nùng, 
góp phần vào sự phát triển bền vững vùng 
đồng bào DTTS trên đất nước Việt Nam. 
Chú thích 
* Bài viết là kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Nhà 
nước: Hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ dân 
tộc thiểu số ở Việt Nam, mã số: ĐTĐLXH-02/18. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trần Trí Dõi (2016), Ngôn ngữ các dân tộc 
thiểu số ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo 
chí, Nxb Lao động, Hà Nội. 
[3] Lí Thị Hà (2018), Đề tài khoa học “Một số đặc 
điểm ngôn ngữ trong chương trình Tiếng Tày - 
Nùng của Đài phát thanh - truyền hình tỉnh 
Cao Bằng”, Trường Đại học Sư phạm, Đại học 
Thái Nguyên. 
[4] Nguyễn Hữu Hoành (Chủ biên) (2012), Ngôn 
ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 
(Những vấn đề chung), Nxb Từ điển bách 
khoa, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Thị Nhung (2018), Khảo sát, điều tra 
về truyền hình tiếng Tày - Nùng tại hai tỉnh 
Lạng Sơn và Cao Bằng. 
[6] Viện dân tộc học (2014), Các dân tộc ít người 
ở Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
 121 

File đính kèm:

  • pdftruyen_hinh_bang_tieng_tay_nung_o_viet_nam.pdf