Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở phân tích đạo đức nghề báo với tư cách là một lĩnh vực

đạo đức nghề nghiệp, các chuẩn mực và thực trạng của đạo đức nghề báo ở

Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề báo ở

nước ta. Các giải pháp đó là: tự giáo dục, tự tu dưỡng đạo đức cách mạng; tăng

cường công tác giáo dục, quản lý nhà báo; tạo môi trường thuận lợi cho đạo

đức nghề báo phát triển; sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí và tăng tính quy định về

đạo đức; tăng cường sự giám sát của xã hội

pdf 10 trang dienloan 4860
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay

Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 48 
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
HOÀNG ĐÌNH CÚC* 
Tóm tắt: Trên cơ sở phân tích đạo đức nghề báo với tư cách là một lĩnh vực 
đạo đức nghề nghiệp, các chuẩn mực và thực trạng của đạo đức nghề báo ở 
Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề báo ở 
nước ta. Các giải pháp đó là: tự giáo dục, tự tu dưỡng đạo đức cách mạng; tăng 
cường công tác giáo dục, quản lý nhà báo; tạo môi trường thuận lợi cho đạo 
đức nghề báo phát triển; sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí và tăng tính quy định về 
đạo đức; tăng cường sự giám sát của xã hội. 
Từ khóa: đạo đức, đạo đức nghề báo, chuẩn mực đạo đức nghề báo, nhà báo 
Việt Nam. 
1. Đạo đức nghề báo – một lĩnh vực 
đạo đức nghề nghiệp đặc thù 
Đạo đức là một hệ thống nguyên lý, 
quy tắc, chuẩn mực và những khái niệm 
có tính chất đánh giá và tính chất mệnh 
lệnh điều chỉnh hành vi của con người 
trong quan hệ với người khác và với 
cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, 
dân tộc hay toàn xã hội)”(1); là một hình 
thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã 
hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội, 
chế độ kinh tế - xã hội; là một phương 
thức điều chỉnh hành vi của con người. 
Loài người, thông qua thực tiễn của 
mình đã sáng tạo ra nhiều phương thức 
điều chỉnh hành vi như phong tục, tập 
quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức. Đối 
với đạo đức, đánh giá hành vi của con 
người theo quy tắc, chuẩn mực, biểu 
hiện thành các khái niệm như thiện và 
ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi 
nghĩa, nghĩa vụ, danh dự... Bất kỳ trong 
thời đại nào, đạo đức con người cũng 
đều được đánh giá như vậy. Nội dung 
các khái niệm dùng để đánh giá hành vi, 
phẩm giá của mỗi người luôn được thay 
đổi theo sự phát triển của xã hội. Trong 
xã hội có giai cấp thì đạo đức bao giờ 
cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp 
nhất định.(*) 
Khác với pháp luật, các quy tắc chuẩn 
mực đạo đức không ghi thành văn bản 
pháp quy có tính cưỡng bức, song đều 
(*) Phó Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Báo chí và 
Tuyên truyền. 
(1) Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng 
(1987), Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học 
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. 145. 
Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay 
 49 
được con người thực hiện do sự thôi 
thúc của lương tâm cá nhân và của dư 
luận xã hội, để giúp chủ thể nhận thức 
lại tính lợi ích của họ. Sống trong cộng 
đồng, con người luôn suy nghĩ về những 
vấn đề đạo đức để tìm ra con đường, 
cách thức hành động sao cho thỏa mãn 
lợi ích của mình và cộng đồng. Khi nhận 
thức của con người đạt tới trình độ nhất 
định, đạo đức chính là cảm xúc, là trách 
nhiệm của con người trước điều kiện 
sống hiện tại và trước đồng loại. Sự phát 
triển của xã hội loài người đã chứng 
minh vai trò và sức mạnh của đạo đức. 
Đạo đức thực sự trở thành mục tiêu, 
động lực phát triển, là tiêu chí của sự 
phát triển xã hội. 
Coi trọng đạo đức và thường xuyên 
chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng 
cho cán bộ, đảng viên, thanh niên và 
nhân dân ta là một đặc trưng trong công 
tác tư tưởng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ 
Chí Minh coi giáo dục đạo đức cách 
mạng cho cán bộ là một yêu cầu hàng 
đầu để chuẩn bị tư tưởng và chính trị, 
tiến tới xây dựng một Đảng cách mạng 
chân chính cho giai cấp công nhân Việt 
Nam. Ngày nay, trong công cuộc đổi 
mới toàn diện đất nước, Đảng ta coi 
“việc học tập và làm theo tấm gương 
đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan 
trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, 
đảng viên của các chi bộ, tổ chức đảng 
và các tầng lớp nhân dân”(2). 
Khi trình độ lực lượng sản xuất phát 
triển ngày càng cao, sự phân công lao 
động phong phú, tỷ mỷ, phức tạp hơn, 
ngành nghề trong xã hội xuất hiện ngày 
càng nhiều, thì mỗi thành viên trong xã 
hội thường có một nghề nhất định. Vì 
vậy, hoạt động nghề nghiệp trở thành 
phương thức kiếm sống chủ yếu của 
con người. Thông qua hoạt động nghề 
nghiệp, các lợi ích trực tiếp và thiết yếu 
nhất của con người được thực hiện. 
Mỗi nghề nghiệp do con người lựa 
chọn hoặc được xã hội phân công đều 
có những đặc điểm riêng. Xuất phát từ 
những đặc điểm riêng ấy, qua thực tiễn, 
xã hội đặt ra những yêu cầu cụ thể về 
đạo đức nghề nghiệp trong mỗi giai 
đoạn lịch sử khác nhau. Đạo đức nghề 
nghiệp ra đời và phát triển nhằm điều 
chỉnh quan hệ người với người trong 
nghề nghiệp, điều chỉnh lợi ích cá nhân 
và lợi ích nghề nghiệp. Để làm tròn 
nhiệm vụ ấy, một hệ thống quy tắc 
chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi 
của con người trong quan hệ nghề 
nghiệp ra đời, nó chịu sự quy định bởi 
tính đặc thù của nghề nghiệp.(2) 
Sự ra đời, phát triển của đạo đức nghề 
nghiệp gắn bó mật thiết với đạo đức 
chung. Đạo đức nghề nghiệp là kết quả 
vận dụng các nguyên tắc, chuẩn mực 
đạo đức chung vào từng nghề nghiệp cụ 
thể. Nói cách khác, các quy tắc, chuẩn 
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 257. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 50 
mực đạo đức nghề nghiệp là sự thể hiện 
đặc thù những quy tắc, chuẩn mực đạo 
đức chung của xã hội trong những lĩnh 
vực hoạt động nghề nghiệp; chúng bị 
quy định bởi tính đặc thù của từng hoạt 
động nghề nghiệp nhất định. Vì thế, mỗi 
nghề nghiệp có quy tắc, chuẩn mực đạo 
đức riêng, thể hiện tính đặc thù của nghề 
nghiệp đó. 
Khác với xã hội truyền thống, xã hội 
hiện nay có sự phân công lao động hết 
sức sâu sắc. Ngành nghề xuất hiện 
nhiều, các đặc thù của hoạt động nghề 
đã gây nên những khó khăn nhất định 
cho con người khi phải ứng xử về mặt 
đạo đức trước các tình huống có mâu 
thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã 
hội. Các quy tắc, chuẩn mực đạo đức 
chung của xã hội không đủ xác định để 
giải quyết những vấn đề cụ thể của hoạt 
động nghề nghiệp. Vì thế, vấn đề xây 
dựng đạo đức nghề nghiệp trở thành vấn 
đề cấp bách của xã hội hiện nay. 
Nghề làm báo là một nghề do xã hội 
phân công. Đạo đức nghề báo là một 
loại đạo đức nghề nghiệp, là một bộ 
phận, một yếu tố cấu thành của đạo đức 
xã hội. Việc làm sáng tỏ lý luận đạo đức 
nghề báo nói chung, cụ thể làm sáng tỏ 
các yêu cầu, chuẩn mực đạo đức nghề 
báo, là một đòi hỏi của xã hội, của bản 
thân nghề làm báo. 
Báo chí của xã hội Việt Nam hiện nay 
rất phong phú. Dù vậy, báo chí Việt Nam 
có những chức năng chung; đó là chức 
năng thông tin, chức năng định hướng 
chính trị và tư tưởng, chức năng văn hóa, 
giáo dục, chức năng giám sát và phản 
biện xã hội, chức năng giải trí, chức năng 
quảng cáo... Tổng hợp các chức năng của 
báo chí, quy định tính chất đặc thù của 
nghề báo, các chức năng ấy thể hiện 
thông qua một hệ thống quan hệ giữa nhà 
báo với xã hội, với nghề nghiệp, với 
đồng nghiệp và với chính mình. Vì vậy, 
có thể khái quát: Đạo đức nghề báo là hệ 
thống quy tắc, chuẩn mực đạo đức của 
người làm báo trong quan hệ với xã hội, 
với nghề nghiệp, với đồng nghiệp và với 
bản thân. 
Những quy tắc, chuẩn mực đạo đức 
nghề báo là những yêu cầu của xã hội, 
yêu cầu của nghề báo đối với người làm 
báo. Các yêu cầu ấy xác định rõ ràng 
tính chất và những giới hạn của cái có 
thể và cái được phép trong hành vi của 
người làm báo. Các yêu cầu ấy nhằm 
định hướng mọi hành vi của người làm 
báo trong những điều kiện nhất định, 
đồng thời là phương tiện chủ yếu làm 
nhiệm vụ đánh giá đạo đức của người 
làm báo trong hoạt động nghề nghiệp. 
Các quy tắc, chuẩn mực đạo đức ấy tuy 
không được ghi trong luật, nhưng được 
giới báo chí chấp nhận, được duy trì bởi 
lương tâm của nhà báo, của dư luận xã 
hội và của tổ chức nghề nghiệp báo chí. 
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh 
trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã 
luôn coi báo chí cách mạng là đội quân 
Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay 
 51 
xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn 
hóa, đồng thời đã sử dụng báo chí rất có 
hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống kẻ 
thù của giai cấp, của dân tộc và trong 
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta và 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng 
nội dung đạo đức cho những người làm 
báo trong từng giai đoạn cách mạng cụ 
thể. Tổng hợp những nội dung đã được 
định hướng ấy, ta có thể khái quát một 
số chuẩn mực đạo đức của nghề làm báo 
ở Việt Nam hiện nay như sau: 
a. Các chuẩn mực đạo đức trong 
quan hệ giữa nhà báo với xã hội 
Trước hết, người làm báo phải có lập 
trường vững vàng, phải tuyệt đối trung 
thành với Đảng, với nhân dân. Hoạt 
động báo chí là hoạt động chính trị - xã 
hội. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ 
cách mạng, phục vụ nhân dân. Nhà báo 
là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Vì 
vậy, vững vàng theo lập trường của giai 
cấp công nhân đó là yêu cầu hàng đầu 
đối với người làm báo. Lòng trung thành 
là điều kiện căn cốt của nhà báo nhằm 
đảm bảo lợi ích của Đảng, của nhân dân 
và của chế độ xã hội mà Đảng và nhân 
dân ta đã lựa chọn. 
Thứ hai, người làm báo luôn luôn 
phải gắn bó với nhân dân, hết lòng phục 
vụ nhân dân. Nhiệm vụ của báo chí là 
phục vụ mục tiêu của cách mạng, phục 
vụ các yêu cầu của nhân dân. Vì vậy, 
phải luôn “gần gũi với dân chúng”. Khi 
viết bài, nhà báo luôn phải đặt ra: “viết 
cho ai”, “viết để làm gì”. Nếu nhà báo 
không gần dân, không sát dân, không 
lăn mình trong cuộc sống của dân để 
viết, “cứ ngồi trong phòng giấy mà viết 
bài thì không thiết thực”. 
Thứ ba, người làm báo phải nâng cao 
tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước 
nhân dân khi viết bài. Báo chí là công 
cụ lãnh đạo của Đảng. Ngoài lợi ích của 
Đảng, của nhân dân, người làm báo cách 
mạng không có lợi ích nào khác. Vì vậy, 
người làm báo phải một lòng, một dạ 
phục vụ lợi ích của Đảng, của nhân dân, 
chịu mọi trách nhiệm trước Đảng, trước 
dân khi viết bài. 
Thứ tư, người làm báo phải giữ gìn 
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 
Nhà báo là người chủ động phản ánh các 
giá trị văn hóa của dân tộc được tạo 
dựng hàng ngàn năm dựng nước và giữ 
nước. Với tính cách là người chiến sĩ 
xung kích trên mặt trận văn hóa, tư 
tưởng của Đảng, của dân tộc, nhà báo có 
vai trò, sứ mệnh là bảo vệ, giữ gìn và 
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đấu 
tranh, phản bác, chống lại các luận điệu 
sai trái, thù địch, xuyên tạc các giá trị 
văn hóa dân tộc Việt Nam. 
b. Các chuẩn mực đạo đức trong 
quan hệ giữa nhà báo với nghề nghiệp 
Thứ nhất, người làm báo khi tác 
nghiệp phải trung thực, chính xác và 
khách quan. Trình độ mọi mặt của 
nhân dân ta ngày càng nâng cao, đòi 
hỏi báo chí phải đảm bảo tính chân 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 52 
thực, phải phát triển các phương tiện 
thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, 
thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời 
phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi 
trung thực, tôn trọng sự thật là tiêu chuẩn 
đạo đức quan trọng của hoạt động nghề 
báo và là một trong những quy định về 
đạo đức của người làm báo Việt Nam. 
Bởi vì, báo chí là nghề nghiệp đặc thù, có 
nhiều chức năng trong đó chức năng 
quan trọng là chức năng thông tin. Báo 
chí cung cấp thông tin về sự kiện, vấn đề 
đã và đang xảy ra có ý nghĩa xã hội, 
được nhiều người quan tâm. Thông qua 
chức năng thông tin, báo chí góp phần 
quan trọng định hướng nhận thức, suy 
nghĩ để có hành động đúng đắn. 
Thứ hai, người làm báo phải bảo vệ 
nguồn tin và giữ bí mật quốc gia. Vấn 
đề bảo vệ nguồn tin, giữ bí mật cho 
người cung cấp thông tin và bảo vệ bí 
mật an ninh quốc gia luôn luôn là 
nguyên tắc đạo đức quan trọng đối với 
người làm báo trong thời đại hiện nay. 
Vì vậy, trong Luật Báo chí sửa đổi và bổ 
sung năm 1999, chương 3 điều 7 có quy 
định nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí 
là: “báo chí có quyền và nghĩa vụ không 
tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu 
có hại cho người đó, trừ trường hợp có 
yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát 
nhân dân hoặc Chánh án Tòa án nhân 
dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần 
thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm 
nghiêm trọng”. Báo chí cùng với việc 
phản ánh hiện thực xã hội, còn phản ánh 
ý thức xã hội và quan hệ chính trị - xã 
hội. Vì vậy, khó có thể tìm thấy loại báo 
chí nào không phản ánh quan điểm 
chính trị dù theo trường phái nào. Nhà 
báo là một công dân luôn phải có nghĩa 
vụ tuân thủ pháp luật của Nhà nước. 
c. Các chuẩn mực đạo đức trong 
quan hệ giữa nhà báo với đồng nghiệp 
Thứ nhất, đối với người làm báo, sự 
tôn trọng giữa các đồng nghiệp (nghĩa 
rộng bao gồm nhân viên kỹ thuật, phóng 
viên, biên tập viên, ban biên tập...) là 
việc thể hiện thái độ trân trọng đối với 
lao động của đồng nghiệp, không can 
thiệp thô bạo vào tác phẩm của họ mà 
không có sự thỏa thuận, bàn bạc. Vì thế, 
cần phải coi trọng ý kiến của đồng 
nghiệp, vừa để học tập, vừa hiểu rõ ý 
tưởng của đồng nghiệp. 
Thứ hai, đối với người làm báo, đoàn 
kết với đồng nghiệp là thể hiện sự thống 
nhất tư tưởng, thống nhất hành động 
trong nghề nghiệp và sự thống nhất ấy là 
cơ sở để đem đến cho công chúng 
những tác phẩm phản ánh tốt nhất của 
hiện thực cuộc sống, giúp công chúng 
có nhận thức và hành động đúng. 
Hợp tác với đồng nghiệp không chỉ vì 
chuyên môn, vì quá trình tác nghiệp mà 
còn là một yêu cầu về đạo đức của 
người làm báo. Mỗi nhà báo trong quá 
trình tác nghiệp đều phải có mối liên hệ 
Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay 
 53 
mật thiết với xã hội, nguồn tin đối với 
người làm báo có thể đến từ cộng tác 
viên, chuyên gia, độc giả, từ đồng 
nghiệp, từ nhóm làm việc. Vì thế, hợp 
tác với đồng nghiệp sẽ tạo nên sức 
mạnh, giúp nhau vượt qua mọi khó 
khăn, vượt qua chính mình, tránh được 
những định kiến khi nhìn nhận, đánh giá 
các sự kiện, những vấn đề nảy sinh 
trong đời sống kinh tế - xã hội. 
d. Các chuẩn mực đạo đức trong 
quan hệ giữa nhà báo với chính mình 
Thứ nhất, người làm báo phải luôn 
xác định đạo đức cách mạng là “gốc” 
của nhà báo. Muốn làm tròn nhiệm vụ 
của mình, nhà báo phải coi đạo đức cách 
mạng là gốc của mọi vấn đề, là phương 
tiện điều chỉnh các mối quan hệ xã hội 
của người làm báo. Chủ tịch Hồ Chí 
Minh căn dặn “Người cách mạng phải 
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài 
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được 
nhân dân”(3). 
Thứ hai, luôn luôn học tập để nâng 
cao trình độ chính trị, trình độ văn hóa 
và trình độ tác nghiệp là yêu cầu tự thân 
của người làm báo, yêu cầu của nền báo 
chí cách mạng Việt Nam, yêu cầu của 
quá trình hội nhập quốc tế. Đồng thời, 
người làm báo phải xây dựng cho mình 
cuộc sống lành mạnh, trong sáng, không 
lợi dụng nghề nghiệp làm trái pháp luật 
vì lợi ích của mình. Đó là phẩm chất đạo 
đức cần thiết để người làm báo có cơ sở 
phản ánh trung thực, chính xác và khách 
quan mọi vấn đề cuộc sống đặt ra. 
Thứ ba, người làm báo phải thực hiện 
tốt trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công 
dân của mình. Vấn đề cần nhận thức sâu 
sắc rằng, nhà báo trước hết là một công 
dân, phải sống và làm việc theo pháp 
luật. Tất cả những vấn đề nhà báo phản 
ánh phải xuất phát từ ý thức trách nhiệm 
của một công dân của Nhà nước Cộng 
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế, 
không bao giờ được vì lợi ích chính 
mình mà làm sai lệch, bóp méo sự thật. 
Đó là trách nhiệm xã hội, là yêu cầu 
khách quan của người làm báo cách 
mạng. Do vậy, người làm báo phải tự 
giác tuân thủ mọi quy định của pháp 
luật, phải phản ánh cho công chúng 
trung thực, chính xác, khách quan 
những gì đang diễn ra trong nước và 
trên thế giới. Mặt khác, phải kiên quyết 
đấu tranh chống lại mọi luận điệu sai 
trái, tiêu cực, bảo vệ cái đúng, cái tích 
cực, bảo vệ quan điểm, đường lối, chính 
sách của Đảng và Nhà nước ta.(3) 
2. Thực trạng đạo đức nghề báo ở 
Việt Nam hiện nay 
Cùng với công cuộc đổi mới toàn 
diện của đất nước, các cơ quan báo chí 
và những người làm báo có sự phát triển 
nhanh về số lượng và chất lượng. Do 
chịu sự tác động mạnh của nền kinh tế 
thị trường cho nên đạo đức nghề báo có 
(3) Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội, tập 5, tr. 253. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 54 
những mặt tích cực và tiêu cực sau: 
2.1. Những mặt tích cực về đạo đức 
nghề báo 
Thứ nhất, đa số người làm báo Việt 
Nam trong quá trình tác nghiệp luôn 
luôn coi đạo đức là gốc của người làm 
báo. Tuyệt đại đa số những người làm 
báo đã có quan hệ tốt đẹp với xã hội, với 
nghề nghiệp, với đồng nghiệp và với 
chính bản thân mình. Họ có cuộc sống 
trong sáng, lành mạnh, mẫu mực. Đó là 
cơ sở, là nền tảng của sự ra đời những 
tác phẩm báo chí phản ánh khánh quan, 
chân thực cuộc sống của nhân dân, của 
đất nước ta. 
Thứ hai, đa số người làm báo luôn 
luôn trung thành với Đảng, với Tổ 
quốc, với nhân dân. Biểu hiện rõ nét 
của ưu điểm này là các tác phẩm của họ 
luôn trung thực, khách quan vì lợi ích 
của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân. 
Các tác phẩm của họ tạo nên hình ảnh 
đậm nét của đất nước và con người Việt 
Nam ổn định về chính trị, năng động 
trong mọi lĩnh vực, thủy chung trong 
quan hệ hợp tác. Nhờ vậy, thông tin của 
báo chí góp phần quan trọng trong việc 
định hướng nhận thức, định hướng tư 
tưởng tạo nên dư luận xã hội tích cực, 
góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới 
phát triển. 
Thứ ba, đa số người làm báo luôn coi 
trọng biểu dương cái tốt, chống lại cái 
xấu. Một đặc điểm của công cuộc đổi 
mới toàn diện đất nước là cái mới, cái 
tích cực xen kẽ với những mặt tiêu cực. 
Các nhà báo đã kịp thời tuyên truyền 
động viên, biểu dương người tốt, việc 
tốt, ủng hộ các nhân tố mới, bảo vệ 
những người ngay thẳng, trung thực. 
Đồng thời các nhà báo đã dũng cảm, 
tích cực đấu tranh chống lại các hiện 
tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội, góp 
phần làm cho công cuộc đổi mới phát 
triển bền vững. 
Thứ tư, đa số nhà báo yêu nghề, luôn 
bám sát thực tiễn công cuộc đổi mới của 
đất nước để phản ánh bản chất các vấn 
đề đang diễn ra. Sinh thời, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh thường căn dặn những người 
làm báo cách mạng về mặt tư duy, cần 
tập trung nói về những vấn đề quan 
trọng trước mắt, không nói nhiều những 
vấn đề xa xôi. Những người làm báo 
trong thời kỳ đổi mới đã thể hiện đầy đủ 
tinh thần đó. Các nhà báo có mặt ở mọi 
nơi, mọi lúc, ở tất cả tình hình phức tạp 
nào đang diễn ra. Nhờ vậy, các lĩnh vực 
của công cuộc đổi mới đều được nhà 
báo phản ánh kịp thời, chính xác, giúp 
cho Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo 
có hiệu quả. 
2.2. Một số mặt tiêu cực về đạo đức 
nghề báo 
Phát triển kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là chủ 
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước 
ta. Đó là một nhu cầu tự thân, một đòi 
hỏi khách quan trong quá trình phát 
triển của đất nước ta. Tuy nhiên, kinh tế 
Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay 
 55 
thị trường và cơ chế vận hành của nó 
cũng có những mặt tiêu cực đáng lo ngại 
trong quá trình phấn đấu cho mục tiêu 
XHCN. Trong lĩnh vực báo chí và đạo 
đức nghề báo, sự tác động tiêu cực của 
kinh tế thị trường dẫn đến nhiều vấn đề 
phức tạp đáng quan tâm. Trong đó, nổi 
bật là khuynh hướng “thương mại hóa” 
và khuynh hướng “xa rời tôn chỉ, mục 
đích”, chạy theo lối sống không lành 
mạnh của một bộ phận công chúng. Một 
số nhà báo khai thác chi tiết các hành 
động bạo lực, mại dâm, những tệ nạn cá 
biệt trong xã hội một cách giật gân để 
câu khách; đưa thông tin chệch hướng 
đường lối, quan điểm của Đảng; thiếu 
chủ động phê phán những luận điệu sai 
trái để định hướng cho xã hội. 
Chạy theo lợi ích kinh tế thuần túy, 
một số nhà báo cố tình hạ thấp yêu cầu 
chính trị, văn hóa, khoa học; vi phạm 
nguyên tắc tính khách quan, trung thực 
khi đưa tin. Một số nội dung đăng tải 
sai sự thật của họ đã gây nên những 
hậu quả nghiêm trọng. Một số nhà báo 
vô cảm trước những vấn đề bức xúc 
của cuộc sống; thiếu tính nhân văn 
trong khai thác đời tư của cá nhân; bất 
chấp lợi ích cộng đồng nhằm bảo vệ an 
toàn cho lợi ích của mình. Cá biệt, có 
một số người làm báo lợi dụng chức 
vụ, quyền hạn của nhà báo, của cơ 
quan báo chí để trục lợi, để bôi nhọ cá 
nhân, tổ chức chính trị xã hội vì mục 
đích thiếu lành mạnh. 
3. Một số giải pháp nâng cao đạo 
đức nghề báo 
Vi phạm đạo đức của người làm báo 
cách mạng đang là vấn đề khá nghiêm 
trọng đặt ra cho các cơ quan lãnh đạo, 
quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước 
ta. Đây là vấn đề phức tạp, cần có nhiều 
giải pháp đồng bộ cả trước mắt và lâu 
dài của cả hệ thống chính trị, hệ thống 
lãnh đạo và quản lý báo chí, các cơ sở 
báo chí và đặc biệt là sự tự nhận thức, tự 
chuyển của những người làm báo. Có 
thể nêu lên một số giải pháp cơ bản sau: 
Thứ nhất, mỗi nhà báo cần ra sức tự 
giáo dục, tự tu dưỡng đạo đức cách 
mạng. Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và 
phát triển con người, như gốc của cây, 
ngọn nguồn của suối. Chăm lo cái gốc, 
cái nền tảng ấy là công việc thường 
xuyên của mỗi nhà báo. Đạo đức cách 
mạng là do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ 
hàng ngày mà củng cố, phát triển. Nếu 
lơi lỏng việc tu dưỡng đạo đức cách 
mạng, dù chỉ là giây phút thì nhà báo 
có thể trở nên hư hỏng, trở thành kẻ có 
tội với Đảng, với dân, với nước. Nội 
dung tu dưỡng đạo đức của nhà báo là: 
phải có lý tưởng, phải xây dựng một 
thái độ chính trị đúng đắn, phải thực 
hành những chuẩn mực đạo đức cơ bản 
của con người Việt Nam mới (đó là 
trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, 
liêm, chính, chí công, vô tư, yêu thương 
con người, tinh thần quốc tế trong 
sáng). Học tập và làm theo tấm gương 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 56 
đạo đức Hồ Chí Minh là con đường tu 
dưỡng đạo đức của mỗi nhà báo Việt 
Nam. Nhà báo lão thành Hoàng Tùng 
đã nhận xét: “Bác Hồ viết báo có mục 
đích rõ ràng, không nhằm kiếm sống 
hoặc mưu cầu danh lợi mà sẵn sàng 
chấp nhận tai họa, phục vụ sự nghiệp 
giải phóng nhân dân ta”. 
Thứ hai, tăng cường công tác giáo 
dục, quản lý nhà báo của các cơ quan 
báo chí. Cơ quan báo chí là tập thể 
chuyên môn nối liền nhà báo với xã hội. 
Lao động của nhà báo là lao động cá 
nhân nhưng luôn gắn với tập thể chuyên 
môn và sản phẩm của nhà báo là sản 
phẩm của tập thể. Vì thế, cơ quan báo 
chí là nơi nuôi dưỡng, là môi trường báo 
chí lành mạnh, rèn luyện giáo dục và 
quản lý các nhà báo. 
Thứ ba, tạo môi trường thuận lợi cho 
đạo đức nghề báo phát triển. Đời sống 
báo chí không tách rời đời sống xã hội. 
Sự phát triển của báo chí gắn kết với sự 
phát triển của xã hội. Muốn có một đời 
sống báo chí lành mạnh, trước hết phải 
có một xã hội “công bằng, dân chủ, văn 
minh”. Do vậy, cần có chế độ chính sách 
tiền lương, phụ cấp nghề nghiệp, khen 
thưởng, vinh danh phù hợp để nhà báo có 
điều kiện sống, điều kiện làm việc, điều 
kiện phát triển tài năng ngăn ngừa sự vi 
phạm đạo đức, hạn chế những tiêu cực 
nảy sinh. Đồng thời phải xây dựng cho 
được môi trường báo chí chuyên nghiệp, 
nền báo chí chuyên nghiệp để có được 
những nhà báo tác nghiệp với tính 
chuyên nghiệp cao. 
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí 
và tăng tính quy định về đạo đức nghề 
báo. Công cuộc đổi mới đất nước trong 
thời kỳ hội nhập quốc tế đang đặt ra 
nhiều vấn đề lớn về kinh tế - xã hội cần 
nhận thức, cần điều chỉnh cho phù hợp. 
Báo chí là lĩnh vực không nằm ngoài 
những biến đổi đó trong quá trình hoạt 
động. Một số vấn đề trong Luật Báo chí, 
trong hệ thống văn bản pháp luật, trong 
văn bản quy định đạo đức của Hội nhà 
báo Việt Nam không còn phù hợp với 
thực tiễn. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung 
luật báo chí, tăng hiệu lực của các văn 
bản quy định về đạo đức nghề báo là hết 
sức cần thiết. 
Thứ năm, tăng cường sự giám sát 
của xã hội đối với đội ngũ nhà báo. 
Cùng với sự quản lý, kiểm tra của cơ 
quan chủ quản đối với các nhà báo như 
luật định thì sự tham gia giám sát của 
xã hội đối với đội ngũ nhà báo là yếu tố 
có sự tác động mạnh mẽ đến đạo đức 
người làm báo. 
Nâng cao đạo đức nghề báo trong 
điều kiện hiện nay ở nước ta đang thu 
hút sự quan tâm của toàn xã hội, trở 
thành vấn đề có ý nghĩa thiết thực, sâu 
sắc. Việc đề xuất một số giải pháp thiết 
thực nhằm nâng cao đạo đức nghề báo 
là đòi hỏi cấp bách. Trong các giải pháp 
ấy, tự tu dưỡng đạo đức của người làm 
báo có vai trò quyết định. 
Nâng cao đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay 
 57 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_dao_duc_nghe_bao_o_viet_nam_hien_nay.pdf