Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế

Những năm gần đây, trong lĩnh vực xuất

bản và thông tin, trong đó có tạp chí khoa

học, đã thu hút sự quan tâm ngày càng sâu

rộng của nhà sản xuất, người môi giới,

người đọc. Các tổ chức khoa học có uy tín

trên thế giới đã đưa ra nhiều giải pháp để

không ngừng nâng cao chất lượng khoa

học của các sản phẩm trong lĩnh vực xuất

bản và thông tin. *

Ở nước ta, từ năm 2010, vấn đề nâng

cao chất lượng tạp chí khoa học theo tiêu

chuẩn quốc tế đã bước đầu được triển khai

tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Theo xu thế đó, một số tổ chức nghiên cứu,

đào tạo cũng đặc biệt quan tâm tới việc

nâng cao chất lượng tạp chí khoa học của

cơ quan mình, như: Đại học Quốc gia Hà

Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh, Đại học Kinh tế quốc dân

Tuy nhiên, có thể thấy, việc nâng cao

chất lượng tạp chí khoa học xã hội của Việt

Nam chưa thực sự nhận được được quan

tâm như kỳ vọng. Các vấn đề đặt ra là:

Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã

hội theo tiêu chuẩn quốc tế có thật sự cần

thiết và có khả thi trong tình hình hoạt

động khoa học của Việt Nam hiện nay hay

không? Nếu có, thì các nội dung chính ở

đây là gì? Việc xây dựng và thực hiện kế

hoạch đó đối với các tạp chí khoa học xã

hội ở nước ta có thuận lợi, khó khăn gì? Có

thể triển khai theo hướng nào?

pdf 12 trang dienloan 4740
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế

Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI 
THEO TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ 
TRẦN MẠNH TUẤN* 
Những năm gần đây, trong lĩnh vực xuất 
bản và thông tin, trong đó có tạp chí khoa 
học, đã thu hút sự quan tâm ngày càng sâu 
rộng của nhà sản xuất, người môi giới, 
người đọc. Các tổ chức khoa học có uy tín 
trên thế giới đã đưa ra nhiều giải pháp để 
không ngừng nâng cao chất lượng khoa 
học của các sản phẩm trong lĩnh vực xuất 
bản và thông tin. * 
Ở nước ta, từ năm 2010, vấn đề nâng 
cao chất lượng tạp chí khoa học theo tiêu 
chuẩn quốc tế đã bước đầu được triển khai 
tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 
Theo xu thế đó, một số tổ chức nghiên cứu, 
đào tạo cũng đặc biệt quan tâm tới việc 
nâng cao chất lượng tạp chí khoa học của 
cơ quan mình, như: Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí 
Minh, Đại học Kinh tế quốc dân  
 Tuy nhiên, có thể thấy, việc nâng cao 
chất lượng tạp chí khoa học xã hội của Việt 
Nam chưa thực sự nhận được được quan 
tâm như kỳ vọng. Các vấn đề đặt ra là: 
Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã 
hội theo tiêu chuẩn quốc tế có thật sự cần 
thiết và có khả thi trong tình hình hoạt 
động khoa học của Việt Nam hiện nay hay 
không? Nếu có, thì các nội dung chính ở 
đây là gì? Việc xây dựng và thực hiện kế 
hoạch đó đối với các tạp chí khoa học xã 
hội ở nước ta có thuận lợi, khó khăn gì? Có 
thể triển khai theo hướng nào? 
Bài viết này cố gắng đưa ra câu trả lời 
cho các vấn đề nêu trên. 
* Viện Thông tin Khoa học xã hội. 
1. Các tiêu chuẩn quốc tế đối với tạp 
chí khoa học 
Hàng năm, Viện Thông tin khoa học Mỹ 
(ISI) thường công bố danh sách các tạp chí 
khoa học có uy tín trên thế giới trong Báo 
cáo trích dẫn tạp chí, sau khi tiến hành 
khảo sát khoảng 2.000 tạp chí khoa học 
trên toàn thế giới, chọn 10-12% để cập 
nhật vào hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) 
của mình. Đây là hệ thống phản ánh các 
tạp chí khoa học có uy tín, có tầm ảnh 
hưởng lớn đối với cộng đồng khoa học trên 
thế giới. 
Các tiêu chí đánh giá tạp chí khoa học 
của ISI tập trung vào các nội dung chủ yếu 
sau đây1: 
- Các thông tin về tạp chí được thể hiện 
đầy đủ, chi tiết và thống nhất. 
Các tạp chí cần phải được cung cấp chỉ 
số ISSN bởi một cơ quan có thẩm quyền 
(quốc gia, quốc tế). Thông tin thư mục 
phản ánh tạp chí và phản ánh các bài công 
bố trên tạp chí với tư cách là xuất bản 
phẩm phải được trình bày rõ ràng, đầy đủ, 
chính xác. Các tạp chí trực tuyến cần đăng 
ký sử dụng hệ thống chỉ số Nhận dạng vật 
thể số (DOI) để lưu giữ và quản lý mỗi bài 
báo một cách lâu dài và thống nhất trên 
toàn thế giới. 
- Tính kịp thời, đúng kỳ hạn của việc 
công bố/phổ biến tạp chí. 
Đây là một tiêu chuẩn rất được chú 
trọng. Mỗi tạp chí là một bộ phận hữu cơ 
của nguồn thông tin khoa học. Việc tạp chí 
khoa học trễ hạn công bố, xuất bản sẽ kéo 
Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội  
45 
theo nhiều hệ lụy: trong một số trường hợp, 
làm tổn hại đến quyền lợi của tác giả; phá 
vỡ tính hệ thống của nhiều sản phẩm thông 
tin khác được tạo nên Đó là điều cần 
phải tránh. 
- Thông tin tra cứu - chỉ dẫn của các 
công trình được công bố trên tạp chí thể 
hiện tường minh, đầy đủ, chính xác, 
thuận tiện đối với người đọc. 
Thông tin này thể hiện đầy đủ, chi tiết ở 
mức cao nhất trong mỗi bài báo về việc tác 
giả đã khai thác, kế thừa các ý tưởng khoa 
học, các kết quả nghiên cứu đã có. Điều này 
góp phần tạo nên môi trường minh bạch và 
trong sáng trong nghiên cứu khoa học. Ngoài 
ra, thông tin tra cứu-chỉ dẫn phải chính xác 
để người đọc dễ dàng tra cứu, khai thác các 
bài viết có chứa nhiều loại thông tin khác 
nhau, như: văn bản, đồ thị, bảng biểu, số liệu 
thống kê, tranh ảnh 
- Ngôn ngữ bài viết và thông tin thư 
mục được thể hiện trên tạp chí cần thân 
thiện với người đọc. 
Để một tạp chí khoa học có thể phổ biến 
rộng rãi trên thế giới, thì ngôn ngữ thể hiện 
là rất quan trọng. Tiếng Anh được xem là 
ngôn ngữ (khoa học) của thời đại, song 
cũng không thể cực đoan đòi hỏi mọi tạp 
chí phải được xuất bản bằng tiếng Anh. 
Tuy vậy, các tạp chí khoa học được xem là 
có uy tín ngày nay, dù xuất bản bằng ngôn 
ngữ nào thì cũng cần phải cung cấp đến 
người đọc một số thông tin thiết yếu bằng 
tiếng Anh. Thông tin thiết yếu của tạp chí 
khoa học được ISI và các cơ quan thông 
tin-xuất bản lớn trên thế giới xác định gồm 
các thông tin thư mục và phần tóm tắt nội 
dung của bài báo đó. 
- Tính đa dạng quốc tế của Hội đồng 
Biên tập tạp chí và của đội ngũ tác giả. 
Đây cũng là một trong số các tiêu chuẩn 
quan trọng mà ISI dựa vào để xác định một 
tạp chí khoa học có uy tín hay không. ISI 
cho rằng, tạp chí khoa học có uy tín phải là 
diễn đàn khoa học của cộng đồng khoa học 
trên thế giới. Hội đồng Biên tập tạp chí bao 
gồm các nhà khoa học thuộc nhiều quốc 
gia khác nhau, các nhà khoa học trên thế 
giới đều thừa nhận tạp chí đó là diễn đàn 
khoa học của mình (họ có nguyện vọng 
công bố lần đầu các công trình nghiên cứu 
trên tạp chí) là các dấu hiệu chủ yếu đánh 
giá tính đa dạng quốc tế của tạp chí. 
- Số liệu về thông tin trích dẫn trên tạp 
chí được thể hiện một cách có hệ thống 
và dễ dàng truy cập. 
Tạp chí khoa học có uy tín là tạp chí 
được nhiều người khai thác, sử dụng với 
tần số cao. Người ta chú ý tới số lượt trích 
dẫn (bao gồm trong đó cả số lượt tự trích 
dẫn) đối với một tạp chí và khuyến nghị là 
số lượt tự trích dẫn không nên vượt quá tỷ 
lệ cho phép (thông thường là không vượt 
quá 20% tổng số lượt trích dẫn). Tuy nhiên, 
đối với những tạp chí phản ánh những nội 
dung mới và mang tính khu vực, có thể vẫn 
được đánh giá là có uy tín ngay cả khi số 
lượt tự trích dẫn cao hơn so với các trường 
hợp thông thường. 
- Chỉ số tác động (IF) của tạp chí. 
Tỉ lệ trung bình giữa số lượt trích dẫn 
đến tạp chí với số công trình được xuất bản 
của tạp chí trong khoảng 2 năm liên tiếp 
trước năm hiện tại được xem là chỉ số IF 
cơ bản của năm hiện tại của tạp chí đó. Chỉ 
số này được ISI sử dụng để phân hạng các 
tạp chí khoa học2. 
Bên cạnh các tiêu chuẩn chủ yếu nêu 
trên, các tạp chí khoa học có uy tín còn xây 
dựng cho mình một hệ thống quy định 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 
46 
nghiêm ngặt về hình thức, nội dung các 
công trình khoa học, về trách nhiệm của 
tác giả đối với nội dung thông tin mà mình 
công bố. Một số tổ chức khoa học có uy tín 
lại nghiên cứu, xây dựng và phổ biến các 
quy định mang tính chất kỹ thuật rất chi 
tiết để áp dụng các công trình được công 
bố, trong đó đặc biệt là hệ thống chỉ dẫn 
tham khảo 
2. Hiện trạng hệ thống tạp chí khoa 
học xã hội (trường hợp tại Viện Khoa 
học xã hội Việt Nam) 
Hệ thống tạp chí khoa học xã hội của 
nước ta là khá phong phú. Có thể thấy, 
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, với ý 
nghĩa là tổ chức nghiên cứu – đào tạo các 
ngành khoa học xã hội lớn nhất của quốc 
gia, cũng là nơi xuất bản hệ thống tạp chí 
khoa học xã hội tập trung nhất và lớn nhất 
của quốc gia. Chính vì vậy, hiện trạng hệ 
thống tạp chí khoa học tại đây cũng phản 
ánh những thông tin cơ bản nhất của hiện 
trạng chung các tạp chí khoa học xã hội 
nước ta. 
Hiện tại, Viện Khoa học xã hội Việt 
Nam xuất bản 32 tạp chí khoa học, 6 phụ 
trương. 28/32 tạp chí và 1 phụ trương được 
Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước 
xếp vào danh sách được tính điểm đối với 
các công trình khoa học công bố trên đó. 
Đó là sự đánh giá chung, sự ghi nhận và 
phần nào phản ánh uy tín của các tạp chí 
của Viện Khoa học xã hội Việt Nam trong 
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền khoa 
học của nước nhà. 
Qua tìm hiểu, đối chiếu với các tiêu 
chuẩn quốc tế mà ISI cũng như nhiều tổ 
chức khoa học, xuất bản sử dụng để đánh 
giá tạp chí khoa học, có thể sơ bộ đưa ra 
những đánh giá đối với các tạp chí khoa 
học xã hội của Viện Khoa học xã hội Việt 
Nam như sau: 
- Một số kết quả chính. 
- Các tạp chí đã cung cấp đầy đủ thông 
tin về chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục 
đích của tạp chí in cũng như trên mạng tại 
website của tạp chí và của cơ quan chủ 
quản. Các Tòa soạn luôn yêu cầu các tác 
giả cùng phối hợp tuân thủ nghiêm chỉnh 
Thể lệ gửi và đăng bài tạp chí: đăng tải các 
bài nghiên cứu có nội dung mới chưa đăng 
trên các sách, báo và tạp chí khác; trình 
bày các chú thích, tài liệu trích dẫn, danh 
mục tài liệu tham khảo v.v. theo một biểu 
mẫu nhất định (thường là theo quy định 
hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối 
với các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ). 
- Hầu hết các tạp chí đều đã biên soạn 
phần tiếng Anh đối với thông tin thư mục 
về tạp chí, mục lục và phần tóm tắt một số 
bài nghiên cứu chính trên mỗi số xuất bản. 
Cùng với 6 phụ trương, có 2 tạp chí của 
Viện Khoa học xã hội Việt Nam được xuất 
bản bằng tiếng Anh (Vietnam Social 
Sciences và Vietnam Social-Economic 
Development). 
- Các tạp chí đã tuân thủ khá nghiêm 
ngặt về kỳ hạn xuất bản theo đăng ký. 16 
tạp chí có kỳ hạn xuất bản 1 tháng/kỳ; 10 
tạp chí có kỳ hạn xuất bản 2 tháng/kỳ; 6 
tạp chí có kỳ hạn xuất bản 3 tháng/kỳ. Như 
vậy, hàng năm, Viện Khoa học xã hội Việt 
Nam xuất bản 276 số tạp chí và 21 số phụ 
trương các loại. 
- Các tạp chí đều đã cung cấp những 
thông tin chính về tác giả đối với các bài 
nghiên cứu được công bố. 
- Mỗi tạp chí đều đã xây dựng một cấu 
trúc thống nhất cho các phần, mục, chuyên 
Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội  
47 
mục đối với mỗi số được xuất bản nhằm cố 
gắng phản ánh đầy đủ nhất các thông tin 
mới, tiêu biểu nhất của ngành, lĩnh vực 
khoa học liên quan mật thiết tới tôn chỉ, 
mục đích của tạp chí. Các tạp chí đều đã 
chú trọng tới việc hình thành một phong 
cách, sắc thái riêng trên xuất bản phẩm của 
mình (mang theo các đặc trưng về ngành, 
khối ngành, tính truyền thống, thẩm mỹ). 
- Một số vấn đề đặt ra. 
- Chưa có tạp chí nào xây dựng và tuân 
thủ nghiêm ngặt quy chế đọc phản biện của 
chuyên gia trong quy trình công bố và xuất 
bản các bài nghiên cứu khoa học. Chất 
lượng các bài nghiên cứu chưa được thẩm 
định bởi một quy trình khoa học chặt chẽ. 
- Chưa có tạp chí nào trong tổng số 32 
tạp chí mà Hội đồng Biên tập có sự tham 
gia của các nhà khoa học nước ngoài. Số 
lượng tác giả là các nhà khoa học nước 
ngoài công bố trên tạp chí còn khiêm tốn 
và chưa có cơ sở để đưa ra các dự báo về 
sự gia tăng trong tương lai. 
- Các tạp chí đều chưa thực sự quan tâm 
tới công tác xuất bản trực tuyến. cũng như 
chưa dành những nguồn lực ổn định để 
phát hành, phổ biến tạp chí một cách kịp 
thời, thuận tiện đến các tổ chức khoa học, 
các nhà nghiên cứu một cách rộng rãi trên 
thế giới. Sự liên kết, tích hợp giữa hoạt 
động thông tin với hoạt động xuất bản - 
một xu hướng phát triển rất rõ nét hiện nay, 
hầu như chưa được đặt ra. 
Từ các thông tin trên có thể đánh giá 
rằng, các tạp chí khoa học xã hội của nước 
ta về cơ bản chưa đạt được các tiêu chuẩn 
quốc tế chính, và trong một số năm tới, 
cũng chưa có cơ sở đạt được. Vì vậy, uy 
tín của các tạp chí khoa học nói chung và 
tạp chí khoa học xã hội nói riêng của nước 
ta đối với cộng đồng khoa học quốc tế còn 
rất hạn chế. 
Suy cho cùng, chất lượng của tạp chí 
khoa học là phản ánh chất lượng nghiên 
cứu khoa học của tác giả có công trình 
công bố trên tạp chí; đồng thời phản ánh 
chất lượng và trình độ chuyên nghiệp của 
Tòa soạn tạp chí, chất lượng tổ chức và 
hoạt động khoa học của cơ quan chủ quản 
tạp chí. Trong tình hình hiện nay, tạp chí là 
công cụ và phương tiện thuận lợi và hợp lý 
nhất để khoa học xã hội Việt Nam có thể 
hội nhập khu vực và thế giới một cách 
nhanh chóng, tiện lợi trên phạm vi địa lý 
rộng lớn. Vì vậy, thể thức tồn tại và trình 
độ của các tạp chí khoa học cần phải theo 
các quy chuẩn chung mang tính toàn cầu - 
các tiêu chuẩn quốc tế đối với tạp chí khoa 
học. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng các 
tạp chí khoa học là một nhu cầu thiết yếu 
nhằm mục đích xây dựng nền khoa học 
Việt Nam phát triển bền vững và hài hòa 
trong cộng đồng khoa học quốc tế. 
3. Cơ hội và thách thức đối với việc 
nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã 
hội theo các tiêu chuẩn quốc tế 
- Cơ hội. 
 Bên cạnh các cơ hội chung mang tính 
thời đại như quá trình toàn cầu hóa; sự phát 
triển khoa học theo các xu hướng đa ngành, 
liên ngành; cơ sở hạ tầng thông tin dành 
cho hoạt động nghiên cứu, thông tin và 
xuất bản (cho phép các tạp chí khoa học sử 
dụng các công cụ đánh giá khoa học trên 
cơ sở các phép đo lường được áp dụng 
trong các lĩnh vực nghiên cứu; hệ thống 
pháp luật và ý thức về vấn đề bản quyền 
trong xã hội ngày một nâng cao..., thì ở 
nước ta, các cơ hội cho quá trình nâng cao 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 
48 
chất lượng tạp chí khoa học xã hội cũng 
hết sức đặc biệt. 
+ Trình độ và đội ngũ cán bộ nghiên 
cứu trong các ngành khoa học xã hội ở 
nước ta không ngừng lớn mạnh, được phân 
bố trên khắp các vùng trong cả nước. Hệ 
thống tổ chức nghiên cứu - đào tạo trong 
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ngày 
càng được củng cố và phát triển. Riêng 
Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã có gần 
40 Viện nghiên cứu khoa học chuyên 
ngành, liên ngành, đa ngành và các tổ chức 
tương đương. Học viện Khoa học xã hội 
được thành lập, chính thức tham gia vào hệ 
thống đào tạo các bậc sau đại học (Thạc sỹ, 
Tiến sỹ) về các ngành khoa học xã hội và 
nhân văn ở nước ta. Đây được xem là bước 
phát triển ở tầm vĩ mô của chiến lược đào 
tạo các chuyên gia khoa học của nước nhà. 
Cho đến nay, hầu hết các ngành, lĩnh vực 
nghiên cứu đều có bậc đào tạo sau đại học. 
Các nhà khoa học trẻ tuổi, được đào tạo bài 
bản, chính là đội ngũ các tác giả tiềm tàng 
của các công trình nghiên cứu khoa học sẽ 
được công bố trên các tạp chí khoa học xã 
hội ở trong và ngoài nước. Hơn nữa, đội 
ngũ các học viên cao học, nghiên cứu sinh 
của nước ta được đào tạo ở nước ngoài 
cũng chiếm một số lượng khá lớn. Những 
cán bộ khoa học này có rất nhiều điều kiện 
và lợi thế trong việc thực hiện các nghiên 
cứu khoa học mang tính quốc tế, phù hợp 
với các chuẩn mực quốc tế. Đây là một lợi 
thế lớn nếu chúng ta có các chính sách phù 
hợp, tạo mối liên hệ và điều kiện cần thiết 
để họ có các đóng góp trực tiếp vào việc 
nâng cao chất lượng tạp chí khoa học theo 
các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, các 
chỉ số thống kê quốc tế gần đây cho thấy vị 
trí và mức đóng góp của khoa học nước ta 
không ngừng được gia tăng theo thời gian3. 
 + Sự quan tâm của các nhà khoa học 
trên thế giới đối với Việt Nam, trong đó có 
khoa học xã hội ngày một tăng cường và 
nâng cao. Một xu hướng nghiên cứu được 
thể hiện khá rõ rệt hiện nay là, nhiều cá 
nhân, tổ chức khoa học của các nước phát 
triển (Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Canada, 
Úc) quan tâm tới đối tượng nghiên cứu 
là các khu vực, cộng đồng thuộc các nước 
nghèo, đang hay chậm phát triển. Một hệ 
quả tất yếu từ xu hướng này là việc xuất 
hiện ngày càng nhiều các ...  tạp chí đều không có 
nguồn tài chính ở mức tối thiểu để duy trì 
hoạt động của Hội đồng Biên tập, triển 
khai công đoạn phản biện khoa học đối với 
các bài báo. Hơn nữa, ngay khi còn rất 
khan hiếm, thì các quy định hiện hành 
trong việc sử dụng nguồn tài chính này hầu 
như chưa thực sự hướng tới mục tiêu quan 
trọng bậc nhất là nâng cao chất lượng khoa 
học của các công trình xuất bản trên tạp chí. 
4. Giải pháp nâng cao chất lượng các 
tạp chí khoa học xã hội 
Thực tiễn cho thấy, khoảng cách giữa 
trình độ phát triển của các tạp chí khoa học 
xã hội của nước ta so với các tạp chí có uy 
tín trên thế giới là khá lớn. Các nguồn lực 
đầu tư cho tạp chí hầu như không có gia 
tăng đột biến. Bởi vậy, các bước đi nhằm 
mục tiêu rút ngắn khoảng cách nêu trên cần 
được tính toán, cân nhắc kỹ càng, cụ thể và 
hợp lý. Từ các nghiên cứu và tham vấn ý 
kiến của những người tham gia thực hiện 
đề tài này ở Bộ Khoa học và Công nghệ, 
chúng tôi cho rằng, cần có những bước đi 
thực tế, phù hợp với hoàn cảnh của Việt 
Nam. Đó là, trước khi chúng ta xây dựng 
chiến lược nâng cao chất lượng các tạp chí 
khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế, thì cần 
thiết xây dựng chiến lược nâng cao chất 
lượng các tạp chí khoa học theo tiêu chuẩn 
quốc gia Việt Nam một cách cụ thể và 
thống nhất cho từng loại hay từng nhóm 
tạp chí. Trên cơ sở đó, từng bước nâng cao 
chất lượng tạp chí khoa học của Việt Nam 
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Như vậy, trước 
hết, theo chúng tôi, cần phải hình thành 
một Đề án quy mô quốc gia, tương đối dài 
hạn (ít nhất là 5 năm), tạm gọi là Đề án 
quốc gia nâng cao chất lượng các tạp chí 
khoa học xã hội của Việt Nam. 
Có thể phân chia Đề án theo 2 giai đoạn 
hoặc theo 2 nhóm nhiệm vụ chính: 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 
52 
- Nhóm 1: Xây dựng và tổ chức áp dụng 
Tiêu chuẩn Việt Nam: Quy trình xuất bản 
tạp chí khoa học xã hội trên phạm vi quốc 
gia, tức là chung và bắt buộc đối với mọi 
tạp chí khoa học xã hội. Thời gian thực 
hiện: 2 năm. 
Mục đích của nhóm 1: Nâng cao một 
bước căn bản và có hệ thống chất lượng 
các tạp chí khoa học xã hội của Việt Nam 
và thu hẹp khoảng cách giữa trình độ phát 
triển của các tạp chí này đối với các tạp chí 
khoa học có uy tín trên thế giới. Các công 
việc và bước đi cụ thể dự kiến như sau: 
+ Xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam: 
Thống nhất quy trình xuất bản các tạp chí 
khoa học xã hội. Tiêu chuẩn được xây 
dựng cần mang tính khoa học và khả thi, 
và là khung khổ pháp lý chung cho toàn 
bộ công tác xuất bản các tạp chí khoa học 
xã hội. Trên cơ sở khung khổ này, tùy 
vào điều kiện, khả năng mà mỗi tạp chí 
chi tiết hóa Quy trình xuất bản đối với tạp 
chí mình. 
+ Xây dựng và thực thi thống nhất một 
hệ thống chính sách đồng bộ cho các tạp 
chí khoa học xã hội trong việc tuân thủ 
nghiêm ngặt Tiêu chuẩn Việt Nam. Các 
công việc trên được thực hiện trong năm 
đầu triển khai Đề án. 
+ Các tạp chí khoa học xã hội cần xây 
dựng và đệ trình một kế hoạch chi tiết cho 
từng bước áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam 
về Quy trình xuất bản tạp chí khoa học xã 
hội. Công việc này được thực hiện không 
quá 2 năm kể từ sau khi Tiêu chuẩn Việt 
Nam và kèm theo các chính sách nêu trên 
được ban hành. 
Các nguồn đầu tư để các tạp chí khoa 
học xã hội triển khai kế hoạch này chủ yếu 
được tập trung cho việc đào tạo nâng cao 
trình độ đối với đội ngũ biên tập viên 
chuyên nghiệp, nhân viên kỹ thuật, tổ chức 
ban đầu Hội đồng Biên tập Do đó, các 
nguồn đầu tư tài chính là không thực sự lớn. 
Các cơ quan quản lý tạp chí khoa học xã 
hội cần phối hợp chặt chẽ với nhau, theo sự 
chỉ đạo thống nhất của Bộ Khoa học và 
Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông 
để xây dựng kế hoạch đồng bộ, ổn định, và 
đủ cơ sở để đạt được các mục đích đề ra. 
- Nhóm 2: Sau khi các tạp chí thực hiện 
đầy đủ các tiêu chuẩn Việt Nam, cần lựa 
chọn một số tạp chí khoa học xã hội để 
nâng cao chất lượng theo các tiêu chuẩn 
quốc tế. Thời gian thực hiện dự kiến gồm 2 
giai đoạn: giai đoạn I: 2 năm; giai đoạn II 
từ 3-5 năm. 
Đây là việc làm có nhiều khó khăn và 
phức tạp trong thực tiễn, đòi hỏi sự tiến 
hành thống nhất và phối hợp đồng bộ của 
nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc 
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Trước 
hết công việc này cần phải nhận được sự 
chấp thuận của các cơ quan quản lý nhà 
nước về khoa học và công nghệ, về thông 
tin và truyền thông. 
Dưới góc độ nghiên cứu, chúng tôi nêu 
ra các yêu cầu khi triển khai nhiệm vụ 
Nhóm 2 của Đề án như sau: 
+ Các tạp chí được lựa chọn, gọi chung 
là Danh sách tạp chí trọng điểm được đầu 
tư tập trung, cần được xuất bản bằng tiếng 
Anh. Phương thức xuất bản: trực tuyến. Kỳ 
hạn xuất bản: 1 tháng/số. 
+ Các tạp chí thuộc Danh sách nêu trên 
phải đáp ứng các yêu cầu về quy trình xuất 
bản mà các cơ quan (doanh nghiệp) thông 
tin và xuất bản có uy tín trên thế giới áp dụng. 
Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội  
53 
+ Bảo đảm tính quốc tế của Hội đồng 
Biên tập. Đảm bảo việc phản biện của các 
chuyên gia khoa học có uy tín ở trong nước 
và ngoài nước đối với các công trình khoa 
học dự kiến công bố trên tạp chí. Để thực 
hiện được nhiệm vụ khó khăn này, cần 
nhiều giải pháp cụ thể, trong đó có sự đầu 
tư về tài chính. Để tạo thuận lợi cho công 
việc này, cần chú trọng sử dụng các nguồn 
lực, cũng như hoạt động, chương trình hợp 
tác quốc tế của các tổ chức nghiên cứu, đào 
tạo của Việt Nam với nước ngoài. 
+ Về thành phần tác giả: Bảo đảm thu 
hút các tác giả là người đang làm việc, 
nghiên cứu tại các tổ chức khoa học có uy 
tín trên thế giới thông qua nhiều biện pháp, 
trong đó có cả các biện pháp về chính 
sách7. 
Về tiến độ triển khai: Đến hết giai đoạn 
I, các tạp chí trong Danh sách cần phải đạt 
được các kết quả cụ thể: 
- Tuân thủ đầy đủ các Tiêu chuẩn Việt 
Nam đối với tạp chí khoa học xã hội. 
- Có tên thường xuyên trong Danh sách 
tạp chí được tính điểm và được xếp ở mức 
tính điểm cao nhất (trong ít nhất một 
ngành/ khối ngành xác định) do Hội đồng 
chức danh Giáo sư Nhà nước phê duyệt. 
- Trong Hội đồng Biên tập có sự tham 
gia của các nhà khoa học đang làm việc tại 
các nước có trình độ khoa học tiên tiến. 
- Đăng ký sử dụng dịch vụ xuất bản của 
một trong số các doanh nghiệp thông tin và 
xuất bản lớn, có uy tín trên thế giới. 
- Được xuất bản bằng tiếng Anh. 
Kết thúc giai đoạn II (3-5 năm), các tạp 
chí trong Danh sách nêu trên phải đạt được 
các yêu cầu sau: 
- Duy trì và không ngừng nâng cao chất 
lượng theo các kết quả đã đạt được trong 
giai đoạn I. 
- Phối hợp với các tổ chức nghiên cứu, 
đào tạo để tổ chức định kỳ hàng năm Hội 
thảo khoa học quốc tế về ngành, khối 
ngành mà tạp chí phản ánh. 
- Chú trọng gia tăng số lượng các thành 
viên Hội đồng Biên tập là các nhà khoa 
học có uy tín trên thế giới. 
- Chú trọng thu hút các tác giả đang làm 
việc tại các tổ chức khoa học có uy tín của 
các nước có trình độ khoa học tiên tiến 
công bố kết quả nghiên cứu. 
- Hoàn tất các thủ tục đăng ký với ISI để 
sau khoảng 2 năm, được xuất hiện trong 
Danh sách Philadelphia. 
Tạp chí trọng điểm được lựa chọn cần 
đáp ứng các yêu cầu sau: 
+ Tạp chí phản ánh ngành, khối ngành 
khoa học xã hội mang tính chất vùng, khu 
vực; có phương diện nghiên cứu đang thu 
hút sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức 
khoa học trên thế giới. Tạp chí có chức 
năng giải quyết hoặc tham gia giải quyết 
các vấn đề mang tính quốc tế. Chú trọng 
lựa chọn các tạp chí mang tính đa ngành, 
liên ngành, đặc biệt là tạp chí phản ánh cả 
các ngành khoa học tự nhiên, các ngành kỹ 
thuật trong sự liên kết chặt chẽ với các 
khoa học xã hội. 
+ Đội ngũ các nhà khoa học của nước ta 
trong các ngành, khối ngành khoa học là 
đủ lớn và có uy tín đối với các nhà khoa 
học trên thế giới. 
+ Các ngành, khối ngành mà tạp chí 
phản ánh đã có truyền thống hợp tác với 
các tổ chức khoa học lớn, có uy tín trên thế 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012 
54 
giới và các tổ chức này có truyền thống 
trong việc xuất bản tạp chí khoa học thuộc 
Danh sách Philadelphia. 
Để giảm bớt các chi phí đầu tư, có thể 
tính đến việc lựa chọn vào Danh sách các 
tạp chí đang được xuất bản bằng tiếng Anh 
hiện nay. Tuy nhiên, đây chỉ xem là một 
tham số phụ và có thể tính tới phương án 
xây dựng một tạp chí mới. 
Sau khi xác định được Danh sách tạp 
chí trọng điểm, cần nâng cấp các tạp chí 
khoa học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế. 
5. Kết luận 
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
đang triển khai Đề án nâng cao chất lượng 
tạp chí khoa học của cơ quan mình theo 
các tiêu chuẩn quốc tế. Sự kiện đó là tiền 
đề để các tạp chí khoa học xã hội tham 
khảo và từng bước nâng cao chất lượng 
của tạp chí trong xu thế khoa học xã hội 
Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu 
rộng và hiệu quả. 
Đổi mới và nâng cao chất lượng các tạp 
chí khoa học xã hội theo các tiêu chuẩn 
quốc tế là một công việc hoàn toàn mới, có 
nhiều khó khăn, song cũng đứng trước 
những cơ hội lớn. 
Nâng cao chất lượng các tạp chí khoa 
học xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế thực 
chất là từng bước góp phần nâng cao nền 
khoa học xã hội Việt Nam trước cộng đồng 
khoa học quốc tế, đồng nghĩa với việc nâng 
cao tầm vóc của đất nước và con người 
Việt Nam trước các quốc gia và các dân 
tộc trên thế giới. Đó cũng chính là quy luật 
phát triển của đất nước nói chung và nền 
khoa học xã hội Việt Nam nói riêng trong 
thời đại toàn cầu hóa. 
Chú thích 
1. Các nội dung chính của phần này được tổng hợp 
từ tài liệu tham khảo số [15]. 
2. Một số tổ chức có uy tín khác như Journal-
Ranking.com, SCImago sử dụng một số tham số 
khác như PII, SJR để phân hạng tạp chí, và các 
tham số này cũng được xây dựng dựa trên chỉ số IF. 
3. Năm 2011, SCImago xếp hạng Việt Nam ở vị trí 
68 trên thế giới về công bố khoa học; đứng sau 
Malaysia, Singapore, Thailand, Indonesia (Nguồn 
4. Bên cạnh các khía cạnh mang tính chất chuyên 
môn, nghiệp vụ, thì các tạp chí khoa học xã hội 
còn chịu sự chi phối về tư tưởng, phản ánh chủ 
trương, đường lối, chính sách của hệ thống chính 
trị hiện tại của nước ta. Đây là nội dung có tính 
đặc thù và có thể coi không hòan toàn cản trở việc 
nâng cao chất lượng của các tạp chí khoa học xã 
hội theo tiêu chuẩn quốc tế, do vậy xin phép không 
phân tích tại đây. 
5. Điều này lại càng trở nên đáng tiếc khi mà 
những bước đi đầu tiên trong quá trình hợp tác với 
INASP lại được khởi xướng từ Viện Thông tin 
Khoa học xã hội (4/2006) và sau đó là việc tại đây 
đã triển khai một đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Bộ làm tiền đề cho việc xuất bản tạp chí khoa học 
trực tuyến tại Viện Khoa học xã hội Việt 
NamTháng 4/2006, Mạng Quốc tế truy cập các ấn 
phẩm khoa học (INASP, Anh) đã phối hợp với 
Viện Thông tin KHXH tổ chức wrokshop đầu tiên 
ở Việt Nam về xuất bản tạp chí khoa học trực 
tuyến và khởi xướng triển khai Dự án VJOL. Sau 
đó, các năm 2007, 2008 các workshop tiếp theo 
đều đã được tổ chức một cách rất thành công, mà 
tham gia là các tạp chí khoa học có uy tín của cả 
nước. Đến nay, Dự án này đang tiếp tục được duy 
trì mà cơ quan đầu mối quản lý là Cục Thông tin 
KH&CN Quốc gia. Sau đó, năm 2008, Viện Thông 
tin KHXH là cơ quan chủ trì thực hiện đề tài 
nghiên cứu cấp Bộ Quy trình xuất bản trực tuyến 
theo tiêu chuẩn của mạng Quốc tế truy cập các ấn 
phẩm khoa học (INASP) và các vấn đề áp dụng tại 
Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học xã hội  
55 
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (Chủ nhiệm ThS. 
Phùng Diệu Anh). 
6. P. Sykes trong [6] rất quan tâm đến vấn đề trách 
nhiệm của nhà khoa học trong việc công bố, phổ 
biến các kết quả nghiên cứu của mình. Còn A. 
Lahiri trong [5], D. Nicolas trong [13] đã nêu 2 trở 
ngại chính của việc phát triển thị trường thông tin 
tại các nước đang/chậm phát triển là sự hạn chế 
trong ý thức về bản quyền của mọi người cũng như 
khả năng khó chi trả, chưa có thói quen chi trả cho 
việc khai thác, sử dụng thông tin. 
7. Ví dụ, quy định những người sử dụng ngân sách 
Nhà nước đi nghiên cứu tại nước ngoài (Thạc sỹ, 
Tiến sỹ, Thực tập sinh cao cấp) phải công bố một 
số lượng nhất định các công trình nghiên cứu của 
mình trên các tạp chí trong nước được chỉ định cụ 
thể với từng ngành, khối ngành. 
____________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Danh mục tạp chí khoa học chuyên ngành được 
tính điểm công trình khoa họcquy đổi khi xét công 
nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2011 
(Ban hành kèm theo Quyết định số 14/QĐ-
HĐCDGSNN ngày 09/5/2011 của Thường trực 
HĐCDGSNN) 
2. Jurnal of the History of Ideas. Style Sheet: Guide 
for Authors (Revised Juanary 2011). p.1. 
<
horGuide.pdf >. 
3. The Information Society./ N. Moore. In: World 
Information Report 1997/1998 pp. 271-284. 
6215e.pdf. pp 
4. Khả năng và điều kiện ứng dụng trắc lượng thư 
mục./ Trần Mạnh Tuấn.// Thông tin Khoa học xã 
hội. 2012. Số 2. 
5. Library and Information Services: Chapter 2: 
South Asia./ A. Lihari. In: World Information 
Report 1997/1998. pp 33-46. 
<
06215e.pdf> 
6. Legal Responsibilities in Information Supply./ P. 
Sykes.- In: Handbook of Special Librarianship and 
Infomartion Work: 7th edi./ Edited by A. 
Scammell.- London: ASLIB. 1998. pp. 265- 291. 
7. International Guidelines on Information 
Literacy./ J. Lau (Chair, Information Literacy 
Section, IFLA). IFLA. 2004. 44p. 
<
uidelines.pdf> 
8. Nâng cao năng lực quản lý để tăng cường chất 
lượng các tạp chí KHCN của Viện Khoa học và 
Công nghệ Việt Nam: Đề án./ Chủ nhiệm 
GS.TSKH. Nguyễn Khoa Sơn. 18 tr. 
9. Oxford Referencing System./ Người dịch: Trần 
Mạnh Tuấn.// Thông tin & Tư liệu. 2012. Số 2. tr. 
10. The Peer Review Process: A Report to the JISC 
Scholarly./ Fytton Rowland F. Communications 
Group. 16 
p 
11. Quy trình xuất bản trực tuyến theo tiêu chuẩn 
của mạng Quốc tế truy cập các ấn phẩm khoa học 
(INASP) và các vấn đề áp dụng tại Viện Khoa học 
xã hội Việt Nam: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ./ Chủ 
nhiệm ThS. Phùng Diệu Anh. H.: Viện Khoa học 
xã hội Việt Nam. 2008. 
12. References/Bibliography Vancouver Style. 
<www.library.uq.edu.au/training/citation/vancouv.
pdf> . p.5- 6. 
13. Study of End User./ D. Nicolas. In Handbook 
of Special Librarianship and Infomartion Work: 
7th edi./ Edited by A. Scammell.- London: ASLIB. 
1998. pp. 146-189. 
14. Tạp chí khoa học: Cách đánh giá của Thomson 
Reuters và vấn đề của quản lý Nhà nước./Trần 
Mạnh Tuấn. // TC Hoạt động khoa học. 2011. Số 9. 
15.The Thomson Reuters Journal Selection 
Process./ Jim Testa 
<thomsonreuters.com/products_services/science/freee/
essays/journal_selection_process/>(updated 5/2012) 
16. Triển khai thực hiện các kỹ năng ứng dụng 
phần mềm xuất bản trực tuyến cho các tạp chí khoa 
học: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ./ Chủ nhiệm ThS. 
Nguyễn Công Thăng.: H. Viện Khoa học và Công 
nghệ Việt Nam. 2011. 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_chat_luong_tap_chi_khoa_hoc_xa_hoi_theo_tieu_chuan.pdf