Nghiên cứu mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa với sự hiểu biết và thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh ở cộng đồng dân cư xã Vinh Thái

Nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa (KSTĐTH) là tình trạng phổ biến ở các nước nhiệt đới như nước ta. Nắm vững các kiến thức phòngbệnh ký sinh trùng và thay đổi các hành vi nguy cơ có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH. Mục tiêu: Đánh giá tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa của cộng đồng dân cư xã Vinh Thái, trước và sau khi được giáo dục sức khỏe và sự thay đổi về hiểu biết và thực hành vệ sinh phòng bệnh nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa. Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát ở 60 hộ gia đình tình nguyện tham gia nghiên cứu ở xã Vinh Thái, bằng phỏng vấn, điều tra dựa trên bộ câu hỏi soạn sẵn kết hợp với giáo dục sức khỏe vệ sinh phòng bệnh, xét nghiệm phân bằng kỹ thuật Kato tìm trứng giun sán. Xét nghiệm phân và phỏng vấn được tiến hành lại sau 6 tháng nhằm đánh giá mối liên quan giữa tình hình nhiễm ký sinh trùng đường ruột và sự thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Kết quả: Trước giáo dục sức khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký sinh trùng đường tiêu hóa là 17,4%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc, giun kim, sán lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-Tóc, giun tóc-móc lần lượt là 0,1%; 8,0%; 5,8%; 0,6%; 0,3%; 1,2% và 0,3%. Sau khi giáo dục sức khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký sinh trùng đường tiêu hóa là giảm còn 12,6% mặc dù sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng không còn trường hợp nào nhiễm giun kim, sán lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-tóc. Sau khi giáo dục sức khoẻ kiến thức về bệnh ký sinh trùng tăng lên có ý nghĩa thống kê nhưng thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh chưa có thay đổi đáng kể. Kết luận: Giáo dục sức khoẻ góp phần quan trọng làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH. Giáo dục sức khoẻ có thể làm gia tăng kiến thức về bệnh ký sinh trùng có ý nghĩa nhưng để thay đổi các hành vi nguy cơ cần có những nghiên cứu tiếp theo

pdf 6 trang dienloan 9020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa với sự hiểu biết và thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh ở cộng đồng dân cư xã Vinh Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa với sự hiểu biết và thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh ở cộng đồng dân cư xã Vinh Thái

Nghiên cứu mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa với sự hiểu biết và thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh ở cộng đồng dân cư xã Vinh Thái
119
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA TỶ LỆ NHIỄM
KÝ SINH TRÙNG ĐƯỜNG TIÊU HÓA VỚI SỰ HIỂU BIẾT VÀ 
THỰC HÀNH CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH PHÒNG BỆNH 
Ở CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ XÃ VINH THÁI
Tôn Nữ Phương Anh, Ngô Thị Minh Châu và cộng sự
Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa (KSTĐTH) là tình trạng phổ biến ở các nước nhiệt đới 
như nước ta. Nắm vững các kiến thức phòngbệnh ký sinh trùng và thay đổi các hành vi nguy cơ có thể làm 
giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH. Mục tiêu: Đánh giá tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa của cộng đồng 
dân cư xã Vinh Thái, trước và sau khi được giáo dục sức khỏe và sự thay đổi về hiểu biết và thực hành vệ 
sinh phòng bệnh nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa. Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát ở 60 hộ gia đình 
tình nguyện tham gia nghiên cứu ở xã Vinh Thái, bằng phỏng vấn, điều tra dựa trên bộ câu hỏi soạn sẵn kết 
hợp với giáo dục sức khỏe vệ sinh phòng bệnh, xét nghiệm phân bằng kỹ thuật Kato tìm trứng giun sán. Xét 
nghiệm phân và phỏng vấn được tiến hành lại sau 6 tháng nhằm đánh giá mối liên quan giữa tình hình nhiễm 
ký sinh trùng đường ruột và sự thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Kết quả: Trước giáo dục sức 
khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký sinh trùng đường tiêu hóa là 17,4%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun móc và 
giun tóc, giun kim, sán lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-tóc, giun tóc-móc lần lượt là 0,1%; 8,0%; 5,8%; 
0,6%; 0,3%; 1,2% và 0,3%. Sau khi giáo dục sức khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký sinh trùng đường tiêu hóa là giảm 
còn 12,6% mặc dù sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng không còn trường hợp nào nhiễm 
giun kim, sán lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-tóc. Sau khi giáo dục sức khoẻ kiến thức về bệnh ký sinh 
trùng tăng lên có ý nghĩa thống kê nhưng thực hành các biện pháp vệ sinh phòng bệnh chưa có thay đổi đáng 
kể. Kết luận: Giáo dục sức khoẻ góp phần quan trọng làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH. Giáo dục sức khoẻ có thể 
làm gia tăng kiến thức về bệnh ký sinh trùng có ý nghĩa nhưng để thay đổi các hành vi nguy cơ cần có những 
nghiên cứu tiếp theo.
Từ khoá: ký sinh trùng đường tiêu hoá, giáo dục sức khoẻ.
Abstract
STUDY ON THE RELATIONSHIP BETWEEN PARASITIC INFECTION 
AND KNOWLEDGE, HYGIENIC PRACTICAL MEASURES OF 
PARASITIC INFECTIOUS PREVENTION IN VINH THAI COMMUNITY
Ton Nu Phuong Anh, Ngo Thi Minh Chau and et al
Hue University of Medicine and Pharmacy
Introduction: Intestinal parasite infections werecommonintropical country such as Vietnam. Having good 
knowledge of parasitic infectious prevention and changing risk behaviors can decrease the infection rate. 
Objective: To evaluate the parasitic infectious rate in Vinh Thai community before and after being health 
education and the changing of knowledge of parasitic infectious prevention and risk behaviors. Materials 
and methods: 60 households in Vinh Thai commune were interviewed their knowledge of parasitic infectious 
prevention and examined intestinal parasite infection by Kato technique and then trained the knowledge 
of parasitic infectious prevention. The interview and examination parasite infectiousrate were carried out 
after 6 months to evaluating their knowledge. Result: Before health education, the rate of intestinal parasite 
infection was 17.4% with the prevalence of Ascaris lumbricoides, hookworm, whipworm, pinworm, small 
fluke worm and co-infection with A. lumbricoides - whipworm, hookworm-whipworm were 0.1%; 8.0%; 
5.8%; 0.6%; 0.3%; 1.2% and 3.0% respectively. Six months later the rate of intestinal parasite infection was 
- Địa chỉ liên hệ: Tôn Nữ Phương Anh, email: phuonganhtonnu@gmail.com
- Ngày nhận bài: 22/4/2017; Ngày đồng ý đăng: 6/9/2017; Ngày xuất bản: 18/9/2017
120
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
decreased in 12.6% even though not statistical significantly. However, there were no case of small fluke 
worm and co-infection with hookworm-whipworm. Receiving health education, their knowledge of parasitic 
infectious prevention was higher significantly but their risk behaviors were not changed so much. Conclusion: 
Health education can change the rate of parasite infection with higher knowledge of parasitic infectious 
prevention but it was necessary continuous study to change the risk behaviors.
Key words: intestinal parasite, health education.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa (KSTTH) là 
vấn đề của các nước đang phát triển, đặc biệt là ở 
vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm như nước ta. 
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ước tính trên thế giới có 
hơn 1 tỷ người nhiễm một hay nhiều loại KSTĐR và 
khoảng 2 tỷ người có nguy cơ bị nhiễm. Hằng năm 
có khoảng 3,5 triệu trường hợp có các triệu chứng 
liên quan đến bệnh giun tròn[3]. Việt Nam là nước 
có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều 
tạo điều kiện thuận lợi cho KSTĐTH phát triển và lây 
lan. Tỷ lệ nhiễm KSTĐTH phụ thuộc vào vệ sinh môi 
trường, vệ sinh ăn uống, tập quán ăn uống cũng như 
điều kiện kinh tế xã hội Yapi[11]. 
Phú Vang là một huyện ven đầm phá của tỉnh 
Thừa Thiên Huế, kinh tế còn nhiều khó khăn, người 
dân chủ yếu sống bằng nghề nông – ngư nghiệp, 
điều kiện môi trường còn nhiều hạn chế, công trình 
vệ sinh chưa hợp lý. Ở một số xã, ý thức của người 
dân về việc phòng chống bệnh KSTĐTH còn chưa 
cao. Để góp phần vào việc phòng tránh các bệnh 
nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa thông qua 
nâng cao hiểu biết và thay đổi thái độ của người 
dân chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu mối liên 
quan giữa tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu 
hóa với sự hiểu biết và thực hành các biện pháp 
vệ sinh phòng bệnh ở cộng đồng dân cư xã Vinh 
Thái, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế ” với 
hai mục tiêu:
1. Đánh giá tình hình nhiễm ký sinh trùng đường 
tiêu hóa của cộng đồng dân cư xã Vinh Thái, huyện 
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế trước và sau khi 
được giáo dục sức khỏe về vệ sinh phòng bệnh.
2. Đánh giá sự thay đổi về hiểu biết và thực hành 
vệ sinh phòng nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu 60 hộ gia đình tình nguyện tham gia 
nghiên cứu ở xã Vinh Thái, huyện Phú Vang, tỉnh 
Thừa Thiên Huế.
Từ 60 hộ gia đình nói trên có tống 311 người 
được chọn vào đối tượng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứumô tả 
cắt ngang có theo dõi.
2.2.1. Kỹ thuật tiến hành 
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn bằng phiếu điều 
tra soạn sẵn để khảo sát với kiến thức và các hành vi 
liên quan tới nhiễm giun sán đường tiêu hóa ở các 
đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu. Sau đó tiến 
hành giáo dục sức khỏe vệ sinh phòng bệnh giun sán 
đường tiêu hóa bằng phương pháp tập huấn cho các 
đối tượng nghiên cứu và phát tờ rơi.
Lấy mẫu phân làm xét nghiệm ký sinh trùng 
bằng hai phương pháp: kỹ thuật Kato tìm trứng giun 
sán ký sinh đường tiêu hóa. Các trường hợp nhiễm 
KSTĐTH sẽ được điều trị bằng thuốc đặc hiệu. Chúng 
tôi điều trị bằng thuốc tẩy giun Albendazole nhóm 
bệnh nhân nhiễm giun móc và hoặc giun tóc theo 
phác đồ điều trị của Steinmann P. và cs (2011) [ 9]: 
Albendazole 400mg/ngày x 3 ngày. Riêng các bệnh 
nhân nhiễm giun đũa đơn thuần hay giun kim đơn 
thuần chúng tôi chỉ tẩy giun với mebendazole 500mg 
liều duy nhất. Chúng tôi cũng không điều trị đối với 
phụ nữ có thai hoặc cho con bú hay trẻ dưới 2 tuổi.
Sau đó sẽ đánh giá đáp ứng điều trị bằng xét nghiệm 
phân lần 2 sau 2 tuần điều trị. Xét nghiệm phân và 
phỏng vấn lại sau 6 tháng để đánh giá lại tỷ lệ nhiễm 
giun và sự thay đổi về kiến thức và thực hành các 
biện pháp dự phòng nhiễm giun sán đường tiêu 
hoá. Đồng thời chúng tôi cũng xét nghiệm phân 120 
người không được giáo dục sức khoẻ để so sánh.
2.2.2. Xử lý số liệu: Theo phương pháp thống kê 
y học và viết báo cáo. Kết quả có ý nghĩa thống kê 
với p<0,05.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2016 
đến tháng 12/2016, từ 60 hộ gia đình chúng tôi tiến 
hành khảo sát được 311 đối tượng.Thu thập được 
311 mẫu phân làm kỹ thuật Kato ở lần phỏng vấn 
đầu tiên và 143 mẫu ở lần phỏng vấn thứ 2 (sau 
06 tháng) và trong đợt khảo sát lại sau 6 tháng này 
chúng tôi cũng thu thập 120 mẫu phân ở nhóm 
không tham gia giáo dục sức khoẻ. Trong lần xét 
nghiệm sau 6 tháng được giáo dục sức khoẻ chúng 
tôi chỉ thu thập bệnh phẩm được 143 /311 người 
chiếm tỷ lệ 46%. Những người không xét nghiệm lại 
được với nhiều lí do khác nhau như đi làm ăn xa, đi 
thăm người thân ở xa, đi học
121
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.1. Kết quả khảo sát điều kiện vệ sinh chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Tình trạng có hố xí hợp vệ sinh của các hộ gia đình
Tình trạng hố xí N %
Có 56 91
Không 4 9
Tổng 60 100
Nhận xét: Đa số người dân có hố xí hợp vệ sinh chiếm tỷ lệ 91%.
Bảng 2. Nguồn nước sử dụng của các hộ gia đình
Nguồn nước N %
Nước máy 58 97
Nước giếng 2 3
Tổng 60 100
Nhận xét: Tỷ lệ người dân có nguồn nước sạch để sử dụng rất cao, trong đó 97% số hộ có nước máy để sử 
dụng, phần còn lại cũng có nguồn nước sạch là nước giếng.
3.2. Tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa trước và sau khi giáo dục sức khỏe.
Bảng 3. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa trước và sau khi được giáo dục sức khỏe
Tỷ lệ nhiễm KSTĐR
Trước giáo dục sức khỏe
Sau giáo dục giáo dục sức 
khỏe (sau 06 tháng)
N % n %
Tỷ lệ nhiễm chung 54 17,4 18 12,6
Giun đũa 3 0,1 4 2,8
Giun móc 25 8,0 5 3,5
Giun tóc 18 5,8 8 5,6
Giun kim 2 0,6 0 0
Đũa + tóc 1 0,3 0 0
Tóc + móc 4 1,2 1 0,7
Sán lá gan bé 1 0,3 0 0
Tổng số mẫu điều tra 311 100 143 100
Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm chung ký sinh trùng đường tiêu hóa giảm từ 17,4% xuống còn 12,6% sau khi được 
giáo dục sức khỏe. Trong đó tỷ lệ giun từng loại đều giảm, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p 
= 0,2). Bên cạnh đó ở nhóm 120 người không tham gia giáo dục sức khoẻ chúng tôi xét nghiệm phân cho kết 
quả nhiễm giun chung là 21/120 chiếm tỷ lệ 17,5% với nhiễm từng loại là giun đũa 2, giun tóc 11, giun móc 
6, nhiễm đồng thời giun tóc và móc 2, giun đũa và móc 1 trường hợp.
3.3. Sự thay đổi về hiểu biết và thực hành vệ sinh phòng nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa.
3.3.1. Thay đổi về hiểu biết kiến thức (đường lây, tác hại, phòng bệnh)
Bảng 4. Thay đổi về kiến thức liên quan tới đường lây, tác hại và phòng bệnh
Nội dung khảo sát
Trước giáo dục sức khỏe Sau giáo dục sức khỏe P
N % n %
Biết ≥ 1 đường lây truyền của KST 266 85,5 300 96,4 <0,001
Biết ≥ 1 tác hại của KST 278 89,4 298 95,8 <0,05
Biết biện pháp phòng bệnh là ăn 
uống hợp vệ sinh
231 74,2 256 82,3 <0,05
122
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Biết biện pháp phòng bệnh là không 
đi chân đất
226 72,6 259 83,3 <0,05
Biết biện pháp phòng bệnh là tẩy 
giun định kỳ
226 72,6 259 83,3 <0,05
Biết biện pháp phòng bệnh là là ăn 
chín uống sôi
234 75,2 296 95,1 <0,05
Nhận xét: Sau khi được giáo dục sức khoẻ kiến thức về đường lây truyền, tác hại và các biện pháp vệ sinh 
phòng bệnh của đối tượng nghiên cứu gia tăng rõ rệt với p< 0,05.
3.3.2. Thay đổi về tập quán, hành vi ăn uống 
Bảng 5. Thay đổi về hành vi và tập quán ăn uống
Tập quán ăn uống Trước giáo dục sức khỏe Sau giáo dục sức khỏe P
N % n %
Có ăn rau sống 273 87,8 259 83,3 > 0,05
Ăn thịt bò tái 194 62,4 180 58 > 0,05
Ăn nem chua 210 67,5 195 63 >0,05
Cá nấu chưa chín kỹ 135 43,4 108 34,7 <0,05
Rửa tay trước khi ăn và sau khi đi cầu 259 83,4 273 87,8 > 0,05
Đi chân đất ngoài vườn và ngoài 
đồng
181 58,2 195 63 > 0,05
Nhận xét: Mặc dù kiến thức về bệnh ký sinh trùng gia tăng nhưng thực hành các biện pháp vệ sinh phòng 
bệnh không có thay đổi đáng kể, chỉ có hành ăn cá nướng chưa chín kỹ là thay đổi giảm sau giáo dục sức khỏe 
có ý nghĩa thống kê.
4. BÀN LUẬN
 Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ở xã Vinh 
Thái là một xã đồng bằng chiêm trũng ven phá Tam 
Giang của huyện Phú Vang, dân cư chủ yếu là làm 
ruộng và nuôi trồng thuỷ sản, do đó dễ dàng có các 
thói quen sinh hoạt làm dễ cho việc nhiễm ký sinh 
trùng đường tiêu hoá như đi chân đất, ăn gỏi cá
Theo WHO, giaó dục sức khoẻ về vệ sinh phòng 
bệnh bao gồm: hố xí hợp vệ sinh, rữa tay trước khi 
ăn, sau khi đi vệ sinh, thay đổi thói quen ăn uống 
là một chiến lược quan trọng trong phòng nhiễm 
KSTĐTH nhưng nhiều nghiên cứu cho báo cáo kết 
quả khác nhau. Cũng theoWHO, khảo sát ngẫu nhiên 
25 trường tiểu học ở Việt nam cho thấy giáo dục sức 
khoẻ không làm giảm tỷ lệ nhiễm giun sán đường 
tiêu hoá (Marco Albonico, 2006) sau 4 tháng [ 8]. 
Vì vậy nghiên cứu chúng tôi thực hiện nhằm tăng 
cường giáo dục sức khoẻ vệ sinh phòng bệnh nhiễm 
ký sinh trùng đường tiêu hoá (KSTĐTH) cho các 
hộ gia đình nhằm đánh giá sự thay đổi tình nhiễm 
KSTĐTH sau 6 tháng. 
Khảo sát về điều kiện vệ sinh chung chúng tôi 
nhận thấy tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh cũng 
như nguồn nước sạch để sử dụng chiếm tỷ lệ rất 
cao (Bảng 1, 2). Điều này cho thấy điều kiện vệ sinh 
chung khá tốt ở cộng đồng dân cư này. Như vậy tỷ 
lệ nhiễm KSTĐTH sẽ phụ thuộc rất nhiều vào kiến 
thức vệ sinh phòng bệnh và thái độ thực hành các 
biện pháp vệ sinh phòng bệnh, trong khi thuốc tẩy 
giun được sử dụng rộng rãi theo chương trình của 
WHO chỉ được thực hiện ở trẻ em tuổi tiểu học với 
mebendazole 500mg liều duy nhất nên chưa có tác 
động đáng kể lên cả cộng đồng. Tiến hành giáo dục 
sức khoẻ cho các hộ gia đình và đánh giá tỷ lệ nhiễm 
KSTĐTH trước và sau giáo dục sức khoẻ là biện pháp 
cần thiết góp phần giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH trong 
cộng đồng.
4.1. Tình hình nhiễm ký sinh trùng của dân cư 
xã Vinh Thái. 
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm ký 
sinh trùng đường tiêu hóa ở xã Vinh Thái khá cao, 
trong lần xét nghiệm đầu tiên là 17,4%. Trong đó, 
giun móc, giun tóc và giun đũa chiếm lần lượt là 8%; 
5,8% và 1,2% và có 0,3% đồng nhiễm giun đũa - tóc, 
1,2% nhiễm giun tóc-móc với 1 trường hợp (0,3%) 
nhiễm sán lá gan bé . Từ kết quả nàycho thấy rằng 
ở đối tượng nghiên cứu vấn đề chính là nhiễm giun 
móc và giun tóc. Điều này liên quan chính tới hành 
vi đi chân đất, không bảo hộ lao động khi tiếp xúc 
với đất của người dân (nhiễm giun móc) và hành vi 
ăn rau sống nhiễm ký sinh trùng (giun tóc). Thêm 
vào đó, các con số này cũng phản ánh một vấn đề 
123
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
liên quan tới vệ sinh môi trường là mặc dù các hộ 
gia đình đều có hố xí và nước sạch để dung nhưng 
vẫn có sự phát tán của mầm bênh trứng giun sán ra 
ngaoij cảnh, vì vậy cần tăng cường hơn nữa giáo dục 
vệ sinh môi trường là cần thiết. Bên cạnh đó, tập 
quán ăn uống ví dụ như gỏi cá sống là yếu tố chính 
gây nên nhiễm sán lá gan nhỏ nên việc giáo dục các 
đường truyền từ đó giúp phòng tránh các bệnh giun 
sán đường tiêu hóa là rất quan trọng đặc biệt trong 
cộng đồng dân cư ở vùng đầm phá xã Vinh Thái. 
So sánh với kết quả phường Phú Cát năm 1999, tỷ 
lệ nhiễm giun tóc và giun đũa lên đến 39,25% và 
34,7% nhưng tỷ lệ nhiễm giun tóc lại rất thấp 2,7%, 
và không có nhiễm sán lá gan bé[1]. Một nghiên 
cứu tương tự ở trường Nguyễn Văn Trỗi (thành phố 
Huế) năm 2008 có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất là 
16,5%[2]. 
Qua đây, có thể thấy tỷ lệ nhiễm giun khá khác 
biệt ở từng nghiên cứu, theo đó loại giun nhiễm 
phổ biến trước đây là giun đũa đến nay còn rất thấp 
trong khi giun tóc và đặc biệt giun móc lại cho thấy 
tỷ lệ khá cao hiện nay. Điều này có thể lý giải qua 
việc cải thiện vệ sinh môi trường, vệ sinh ăn uống, 
điều kiện sống đặc biệt là có nguồn nước sinh hoạt 
giúp cải thiện tỷ lệ nhiễm giun sán đường tiêu hóa. 
Bên cạnh đó, các chương trình tẩy giun định kỳ với 
mebendazole 500mg liều duy nhất cho thấy sự hiệu 
quả đối với giun đũa trong khi với giun tóc và giun 
móc thì cải thiện không đáng kể do chu kỳ sinh thái 
của các loại giun này khác nhau. Chính vì vậy trong 
nghiên cứu của chúng tôi khi điều trị tẩy giun cho 
các trường hợp dương tính chúng tôi sử dụng phác 
đồ điều trị thay thế của Steinmann [9] là cần thiết để 
tẩy giun tóc và/hoặc giun móc.
Ở lần xét nghiệm thứ 2 sau đó 6 tháng,tỷ lệ 
nhiễm giun đường ruột có giảm rõ xuống còn 12,6% 
(so với 17,4% ở lần đầu) với sự giảm tỷ lệ nhiễm 
từng loại. Mặc dù số mẫu nghiên cứu còn ít, tỷ lệ 
giảm chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05), nhưng kết 
quả này cũng góp phần ghi nhận rằng chương trình 
phòng chống nhiễm giun sán cần có sự kết hợp giữa 
thuốc tẩy giun hiệu quả kết hợp với giáo dục sức 
khoẻ mới đem lại kết quả bền vững. 
Mặc dầu giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH chưa có 
ý nghĩa thống kê, nhưng với kết quả xét nghiệm 
tình hình nhiễm giun sán ở 120 người chưa được 
giáo dục sức khoẻ ở lần khảo sát sau 6 tháng của 
chúng tôi cũng ghi nhận kết quả tương tự như nhóm 
chứng trước khi được giáo dục sức khoẻ. Kết quả 
này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của vệ 
sinh phòng bệnh trong công tác phòng chống nhiễm 
KSTĐTH. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vai trò 
của chương trình giáo dục kiến thức về phòng chống 
nhiễm ký sinh trùng đường, tương tự như một số 
nghiên cứu cảu các tác giả khác trên thế giới. Theo 
nghiên cứu của Theresa W. Gyorkos và cs tại Peru 
năm 2013 ghi nhận rằng kết hợp tẩy giun và giáo dục 
sức khoẻ vệ sinh phòng bệnh làm giảm tỷ lệ nhiễm 
giun đũa ở trẻ em 11 tuổi nhưng tỷ lệ nhiễm giun 
móc, tóc giảm không đáng kể [10]. 
Ahmed K Al-Delaimy (2014) ở Malayia cũng cho 
thấy giáo dục sức khoẻ đối với cả cộng đồng góp 
phần quan trọng vào việc làm giảm tỷ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất [4].
Bên cạnh đó, việc điều trị cho những người bị 
nhiễm giun đường tiêu hóa bằng Albendazole của 
chúng tôi cũng góp phần làm giảm tỷ lệ này. Tuy 
nhiên, với phác đồ trên thì tỷ lệ của giun móc và 
giun tóc vẫn còn duy trì cao (Bảng 3). Từ kết quả này, 
chúng tôi nhận thấy mebendazole 500mg liều duy 
nhất chỉ hiệu quả với giun đũa nhưng kém với giun 
tóc và giun móc[4]. Do đó, việc sử dụng phác đồ thay 
thế của Peter Steinmann để tẩy giun tóc và giun móc 
có thể mang lại những hiệu quả ở những nghiên cứu 
sau này.
4.2. Sự thay đổi về hiểu biết và thực hành vệ 
sinh phòng nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa. 
Kết quả Bảng 4 cho thấy: sau khi được giáo dục 
sức khoẻ kiến thức về đường lây truyền, tác hại và 
các biện pháp vệ sinh phòng bệnh của đối tượng 
nghiên cứu gia tăng rõ rệt với p < 0,05. Tuy nhiên 
thực hành các biện pháp vệ sinh ăn uống, thói quen 
ăn uống nhằm làm giảm nguy cơ nhiễm KSTĐTH 
chưa thay đổi đáng kể (Bảng 5). Từ nghiên cứu 
này chúng tôi nhận thấy để giáo dục sức khoẻ thật 
sự có hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTĐTH cần 
phải thực hiện với nhiều phương tiện khác nhau 
như biện pháp giáo dục sức khoẻ bằng phim hoạt 
hình trong trường học cũng như ở cộng đồng một 
cách thường xuyên và được sự hỗ trợ của WHO 
(Franziska Andrea Bieri, 2013)[6]. Bên cạnh đó giáo 
dục sức khoẻ ngày phòng chống nhiễm KSTĐTH là 
một trọng tâm của WHO đề ra để góp phần làm 
giảm gánh nặng của nhiễm KSTĐTH lên sự phát triển 
tâm thần vận động của trẻ em, sức khoẻ cộng đồng 
cũng như làm giảm gánh nặng điều trị từ đó làm 
giảm nguy cơ đền kháng thuốc tẩy giun (Krucken J. 
2017,Esteban-Ballesteros M.2017)[7, 5].
Tóm lại, do hạn chế của đề tài chỉ thực hiện được 
trong nhóm nhỏ dân cư với thời gian ngắn, chúng tôi 
ghi nhận được rằng giáo dục sức khoẻ đóng vai trò 
quan trọng làm giảm tỷ lệ nhiễm giun sán trong cộng 
đồng. Bên cạnh đó việc giáo dục sức khoẻ cần phải 
tiến hành trên diện rộng một cách thường xuyên sử 
dụng các phương pháp trực quan sẽ có hiệu quả tốt 
hơn.
124
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
5. KẾT LUẬN
5.1. Tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu 
hóa trước và sau khi được giáo dục sức khỏe về vệ 
sinh phòng bệnh: sau khi được giáo dục sức khoẻ tỷ 
lệ nhiễm giun giảm mặc dầu chưa có ý nghĩa thống 
kê: Trước giáo dục sức khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký 
sinh trùng đường tiêu hóa là 17,4%. Trong đó, tỷ lệ 
nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc, giun kim, sán 
lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-tóc, giun tóc-
móc lần lượt là 0,1%; 8,0%; 5,8%; 0,6%; 0,3%; 1,2% 
và 0,3%.
Sau khi giáo dục sức khỏe, tỷ lệ nhiễm chung ký 
sinh trùng đường tiêu hóa là 12,6%. Trong đó, tỷ 
lệ nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc, và nhiễm 
phối hợp giun tóc-móc lần lượt là: 2,8%; 3,5%; 5,6%; 
0,7%; không còn trường hợp nào nhiễm giun kim, 
sán lá gan bé và nhiễm phối hợp giun đũa-tóc.
5.2. Sự thay đổi về hiểu biết và thực hành vệ 
sinh phòng bệnh nhiễm ký sinh trùng đường tiêu 
hóa: Sau khi giáo dục sức khoẻ kiến thức về bệnh 
ký sinh trùng của đối tượng nghiên cứu tăng lên có 
ý nghĩa thống kê nhưng thực hành các biện pháp vệ 
sinh phòng bệnh chưa có thay đổi đáng kể.
6. KIẾN NGHỊ
Cần tiến hành thêm các nghiên cứu tương tự tại 
huyện Phú Vang cũng như các huyện lân cận để có 
đánh giá chính xác hơn về tình hình nhiễm ký sinh 
trùng đường tiêu hóa cũng như can thiệp các biện 
pháp dự phòng hiệu quả tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tôn Nữ Phương Anh, Phạm Văn Lình và Trương 
Quang Ánh (2000), “Nghiên cứu dịch tễ học nhiễm KST 
đường ruột ở phường Phú Cát TP Huế”, Tạp chí Y học TPH-
CM. Số đặc biệt Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các 
Trường Đại học Y Dược Việt nam lần thứ X, phụ bản tập 4 
số 2, tr. 101- 107.
2. Ngo Thi Minh Chau, Ton Nu Phuong Anh và Nguy-
en Thi Hoa (2010), “Studied the prevalance of intestinal 
protozoa infection in pupil’s Nguyen Van Troi Junior high 
school, Hue city”, Journal of Military Pharmaco - medi-
cine. Vol 25, tr. 108-114.
3. Nguyễn Thị Việt Hòa và cs (2005), Nghiên cứu ảnh 
hưởng của quá trình tẩy giun hàng loạt đến sự phát triển 
thể lực ở học sinh tiểu học (6-11 tuổi), công trình NCKH, 
báo cáo tại hội nghị khoa học toàn quốc, chuyên ngành sốt 
rét-kst-côn trùng giai đoạn 2001-2005, viện SR-KST-CTTW, 
NXB y học Hà Nội.
4. Ahmed K Al-Delaimy, Hesham M Al-Mekhlaf, 
Yvonne AL Lim, Nabil A Nasr, Hany Sady,Wahib M Atroosh 
and Rohela Mahmud, Developing and evaluating health 
education learning package (HELP) to control soil-trans-
mitted helminth infections among Orang Asli children in 
Malaysia, Parasites & Vectors, 2014, 7:416
5. Esteban-Ballesteros M, Rojo-Vázquez FA, Skuce 
PJ, Melville L, González-Lanza C, Martínez-Valladares M, 
Quantification of resistant alleles in the β-tubulin gene of 
field strains of gastrointestinal nematodes and their rela-
tion with the faecal egg count reduction test.,BMC Vet 
Res. 2017 Mar 20;13(1):71.
6. Franziska Andrea Bieri, Impact of a video-based 
health education intervention on soiltransmitted helminth 
infections in Chinese schoolchildren, A thesis submitted 
for the degree of Doctor of Philosophy at The University 
of Queensland in 2013
7. Krücken J, Fraundorfer K, Mugisha JC, Ramünke S, 
Sifft KC, Geus D, Habarugira F, Ndoli J, Sendegeya A, Mu-
kampunga C, Bayingana C, Aebischer T, Demeler J, Gahutu 
JB, Mockenhaupt FP, von Samson-Himmelstjerna G, Re-
duced efficacy of albendazole against Ascaris lumbricoi-
des in Rwandan schoolchildren., Int J Parasitol Drugs Drug 
Resist. 2017 Jun 23;7(3):262-271.
8. Marco Albonico, Antonio Montresor, D.W.T. Cromp-
ton and Lorenzo Saviol, Intervention for the Control of Soil-
Transmitted Helminthiasis in the Community, Advances in 
Parasitology vol 61, 2006 Elsevier Ltd., ISSN: 0065-308X.
9. Steinmann P. và Jurg Utzinger et al., “Efficacy of 
Single-Dose and Triple-Dose Albendazole and Mebenda-
zole against Soil-Transmitted Helminths and Taenia spp.”, 
A Randomized Controlled Trial. (2011), PLoS ONE 6(9): 
e25003
10. Theresa W. Gyorkos, Mathieu Maheu-Giroux, 
Brittany Blouin, Martin Casapia, ,Impact of Health Educa-
tion on Soil-Transmitted Helminth Infections in Schoolchil-
dren of the Peruvian Amazon: A Cluster-Randomized Con-
trolled Trial,Negl Trop Dis. 2013 Sep; 7(9): e2397
11. Yapi RB et al (2016), “Bayesian risk profiling of 
soil-transmitted helminth infections and estimates of pre-
ventive chemotherapy for school-aged children in Côte 
d’Ivoire”, Parasit Vectors. 9, tr. 162.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_moi_lien_quan_giua_ty_le_nhiem_ky_sinh_trung_duon.pdf