Nho giáo và tư tưởng dân chủ

“Dân chủ” và “khoa học” là sản phẩm vĩ đại của lịch sử nhân loại, cũng

là những nhân tố làm nên sự cường thịnh và ưu việt (so với phương Đông) của

các quốc gia phương Tây thời cận hiện đại. Nó trở thành biểu tượng của văn hóa

phương Tây, và là mục tiêu hướng tới của các quốc gia phương Đông. “Dân chủ”

và “khoa học” trở thành tiêu chí chung thể hiện trình độ văn minh của một quốc

gia hiện đại, và là nội dung chủ yếu của “hiện đại hóa”.

Thất bại thảm hại trước sức mạnh quân sự của các nước đế quốc phương Tây

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là cái giá đắt phải trả để tầng lớp trí thức Trung

Quốc và Việt Nam dần tỉnh ngộ và nhận thức ra rằng: “thể chế chính trị dân chủ”

và “nền khoa học kỹ thuật hiện đại” - sản phẩm đặc hữu của văn hóa phương Tây

chính là nhân tố đem lại sức mạnh cho các nước đế quốc phương Tây. Sự cường

thịnh và hùng mạnh của các nước phương Tây được quyết định bởi hai nhân tố này.

Đây cũng là điểm khiếm khuyết ở các quốc gia chuyên chế Nho giáo Đông Á. Bởi

vậy, nếu muốn đất nước tránh được họa diệt vong, giải phóng dân tộc khỏi xiềng

xích nô lệ thực dân, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, đủ sức đương đầu với các

cường quốc phương Tây, các quốc gia Đông Á buộc phải học tập khoa học kỹ thuật

và xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình phương Tây để “hiện đại hóa”

đất nước. Vì thế, “hiện đại hóa” trở thành xu hướng tất yếu, là yêu cầu bức thiết

mang tính thời đại, nó quán xuyến trong nhận thức và mục tiêu của giới tư tưởng

hiện đại Trung Quốc và Việt Nam

pdf 31 trang dienloan 5620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nho giáo và tư tưởng dân chủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nho giáo và tư tưởng dân chủ

Nho giáo và tư tưởng dân chủ
17Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
NHO GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ
(Luận về tư tưởng “dân chủ” Nho giáo 
của Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo)
 Nguyễn Thọ Đức*
I. Mở đầu
“Dân chủ” và “khoa học” là sản phẩm vĩ đại của lịch sử nhân loại, cũng 
là những nhân tố làm nên sự cường thịnh và ưu việt (so với phương Đông) của 
các quốc gia phương Tây thời cận hiện đại. Nó trở thành biểu tượng của văn hóa 
phương Tây, và là mục tiêu hướng tới của các quốc gia phương Đông. “Dân chủ” 
và “khoa học” trở thành tiêu chí chung thể hiện trình độ văn minh của một quốc 
gia hiện đại, và là nội dung chủ yếu của “hiện đại hóa”. 
Thất bại thảm hại trước sức mạnh quân sự của các nước đế quốc phương Tây 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là cái giá đắt phải trả để tầng lớp trí thức Trung 
Quốc và Việt Nam dần tỉnh ngộ và nhận thức ra rằng: “thể chế chính trị dân chủ” 
và “nền khoa học kỹ thuật hiện đại” - sản phẩm đặc hữu của văn hóa phương Tây 
chính là nhân tố đem lại sức mạnh cho các nước đế quốc phương Tây. Sự cường 
thịnh và hùng mạnh của các nước phương Tây được quyết định bởi hai nhân tố này. 
Đây cũng là điểm khiếm khuyết ở các quốc gia chuyên chế Nho giáo Đông Á. Bởi 
vậy, nếu muốn đất nước tránh được họa diệt vong, giải phóng dân tộc khỏi xiềng 
xích nô lệ thực dân, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, đủ sức đương đầu với các 
cường quốc phương Tây, các quốc gia Đông Á buộc phải học tập khoa học kỹ thuật 
và xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình phương Tây để “hiện đại hóa” 
đất nước. Vì thế, “hiện đại hóa” trở thành xu hướng tất yếu, là yêu cầu bức thiết 
mang tính thời đại, nó quán xuyến trong nhận thức và mục tiêu của giới tư tưởng 
hiện đại Trung Quốc và Việt Nam.
Cũng cần hiểu nội hàm “hiện đại hóa” trong quan niệm của giới tư tưởng hiện 
đại Trung Quốc và Việt Nam không đơn thuần chỉ là hiện đại hóa về mặt vật chất, 
mà nó luôn bao hàm hai tầng ý nghĩa song trùng. Công cuộc hiện đại hóa về mặt 
chính thể dân chủ và tri thức khoa học (vật chất) phải luôn song hành với tiến trình 
hiện đại hóa về mặt văn hóa - xây dựng một nền văn hóa mới (tinh thần). Do vậy, 
nội dung cụ thể của “hiện đại hóa” là phấn đấu xây dựng thể chế chính trị dân chủ 
* Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
18 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
theo mô hình các quốc gia phương Tây, học tập tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại 
của họ, và kiến tạo một diện mạo văn hóa mới. 
Khác với chủ trương hiện đại hóa của những người theo chủ nghĩa Tự do 
(Phái Tây hóa) và chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc và Việt Nam đầu thế kỷ XX cho 
rằng, văn hóa Nho giáo truyền thống là căn nguyên gây ra sự lạc hậu và yếu hèn 
của Trung Quốc và Việt Nam, tàn dư của Nho giáo vẫn đang cản trở tiến trình hiện 
đại hóa của Trung Quốc và Việt Nam. Do vậy, muốn “hiện đại hóa” thành công, 
muốn đi theo con đường văn minh công nghiệp phương Tây - xây dựng chính thể 
dân chủ, tiếp thu khoa học hiện đại và kiến tạo nền văn hóa mới theo mô hình 
phương Tây, thì tiền đề của nó là phải đoạn tuyệt với văn hóa Nho giáo truyền 
thống. Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng 
khẳng định và chấn hưng Nho giáo ở Việt Nam (chúng tôi tạm gọi là “Khuynh 
hướng truyền thống”) lại cho rằng, “hiện đại hóa” không có nghĩa là “Tây hóa hoàn 
toàn”, càng không phải là đoạn tuyệt với văn hóa Nho giáo truyền thống. Công 
cuộc hiện đại hóa đất nước phải gắn liền với tiến trình hiện đại hóa tư tưởng Nho 
giáo, và phải được tiến hành trên nền tảng tư tưởng Nho giáo. Theo họ, hiện đại 
hóa đất nước với mục tiêu phú quốc cường binh là kết quả trực tiếp của tiến trình 
hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, vì hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về bản chất là 
điều chỉnh và kiến tạo lại hệ tư tưởng Nho giáo, khiến Nho giáo có thể thích ứng 
và tiếp nhận thành tựu “khoa học” và “dân chủ” phương Tây. Nói cách khác, hiện 
đại hóa tư tưởng Nho giáo là lấy Nho giáo làm nền tảng để tiếp nhận và dung nạp 
các yếu tố “dân chủ”, “khoa học” phương Tây, nhằm xây dựng một đất nước cường 
thịnh với thể chế chính trị dân chủ, nền khoa học hiện đại và một diện mạo văn hóa 
mới - văn hóa Nho giáo hiện đại. Và như vậy, mô thức hiện đại hóa tư tưởng Nho 
giáo cũng chính là phương thức cụ thể hóa mục tiêu hiện đại hóa đất nước. Với ý 
nghĩa đó, “dân chủ” và “khoa học” trở thành điều kiện tồn tại sống còn của Nho 
giáo trong xã hội hiện đại, cũng là một trong những nội dung chủ yếu của tiến trình 
hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo. Lý luận hiện đại hóa theo mô hình này được Tân 
Nho gia hiện đại Trung Quốc và giới nghiên cứu khái quát thành con đường “Văn 
minh công nghiệp phương Đông”/Chủ nghĩa Tư bản Nho giáo. Mô hình cụ thể của 
nó là: Nho giáo + “dân chủ” và “khoa học”.(1)
Đầu thế kỷ XX, khi nhà nước chuyên chế Nho giáo sụp đổ, chế độ khoa cử 
giải thể, Nho giáo rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với quá trình xâm 
nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, là phong trào phê phán Nho giáo rầm rộ 
và gay gắt của những người theo Khuynh hướng phản truyền thống ở Trung Quốc 
và Việt Nam. Thực tế đó đã đẩy Nho giáo tới bờ vực của sự tồn vong. Để chấn 
hưng và khôi phục Nho giáo, khiến Nho giáo có thể thích ứng và tiếp tục tồn tại 
trong xã hội hiện đại, dù muốn hay không, một cách bắt buộc, Tân Nho gia hiện đại 
19Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
Trung Quốc và những người theo “Khuynh hướng truyền thống” ở Việt Nam đều 
phải tìm cơ sở tồn tại mới cho Nho giáo bằng cách hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo. 
Phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc bắt 
đầu từ những năm đầu thập niên ba mươi thế kỷ XX, phát triển mạnh mẽ và liên 
tục thành một dòng tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng hiện đại Trung Quốc - trào 
lưu Tân Nho học hiện đại. Thập niên ba mươi, bốn mươi, ở Việt Nam cũng diễn ra 
hoạt động chấn hưng Nho giáo khá rầm rộ với những đại biểu theo “Khuynh hướng 
truyền thống”. Tác phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim là một trong những trước 
tác tiêu biểu của hoạt động chấn hưng Nho giáo giai đoạn này, thể hiện khá rõ xu 
hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo. 
Nho giáo là một tác phẩm khá đồ sộ trình bày về lịch sử Nho giáo Trung 
Quốc và một phần sơ lược về lịch sử Nho giáo Việt Nam. Nho giáo thể hiện khá 
rõ xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo của Trần Trọng Kim từ nhiều phương 
diện, như: mục đích biên soạn sách “Nho giáo”; phê phán Nho giáo truyền thống; 
giải thích lại tư tưởng triết học Khổng tử; luận bàn về trực giác, lý trí và phương 
pháp triết học Nho giáo; xác lập lại phả hệ truyền thừa đạo thống Nho giáo; hiện 
đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt dân chủ và khoa học; xác lập mô thức văn hóa 
Việt Nam tương lai. Việc tìm hiểu, nghiên cứu và lý giải tường tận nội dung tư 
tưởng của Nho giáo, đòi hỏi một công trình quy mô lớn. Trong bài viết nhỏ này, 
chúng tôi tự giới hạn công việc của mình là tìm hiểu quan điểm của Trần Trọng 
Kim về tư tưởng “dân chủ” Nho giáo, tức tìm hiểu một khâu của tiến trình hiện đại 
hóa tư tưởng Nho giáo của Trần Trọng Kim trong Nho giáo - khâu hiện đại hóa tư 
tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ”. Công việc cụ thể là: trên cơ sở phác thảo những 
quan điểm cơ bản của Trần Trọng Kim về tư tưởng “dân chủ” Nho giáo/tiến trình 
hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” trong Nho giáo, bài viết đưa ra 
đánh giá sơ bộ về ưu nhược điểm của quá trình này. Ngoài ra, bài viết cũng thử đặt 
khâu hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” của Trần Trọng Kim vào bối 
cảnh vận động và phát triển chung của Nho giáo khu vực, bước đầu tìm hiểu những 
điểm chung và khác biệt trong nội dung và thao tác hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo 
về mặt “dân chủ” giữa Trần Trọng Kim với Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc. 
II. Tư tưởng “dân chủ” Nho giáo của Trần Trọng Kim trong tác phẩm 
Nho giáo
Như trên đã nói, “dân chủ” và “khoa học” là mục tiêu của hiện đại hóa, cũng 
là điều kiện tồn tại sống còn của Nho giáo trong xã hội hiện đại. Do đó, trong khi 
tiến hành hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo nhằm tìm kiếm cơ sở tồn tại mới cho 
Nho giáo, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng 
truyền thống ở Việt Nam đều không thể bỏ qua khâu quan trọng này - hiện đại hóa 
tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” và “khoa học”. 
20 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
Trong tác phẩm Nho giáo, ngoài nỗ lực giải thích, kiến tạo lại và hiện đại hóa 
một loạt các vấn đề tư tưởng triết học Nho giáo,(2) Trần Trọng Kim còn đặc biệt 
quan tâm đến việc hiện đại hóa nhằm cấy ghép cho học thuyết Nho giáo tư tưởng 
“dân chủ” và “khoa học”. Nội dung cụ thể của công việc này là tập trung luận giải 
tư tưởng “dân chủ” vốn hàm chứa trong học thuyết Nho giáo, đồng thời so sánh và 
chỉ ra ưu nhược điểm giữa tư tưởng “dân chủ” Nho giáo với thể chế chính trị dân 
chủ phương Tây hiện đại. Bên cạnh đó, Trần Trọng Kim cũng trình bày về mầm 
mống tư tưởng “khoa học” trong học thuyết Nho giáo, và biện luận về mối quan hệ 
và khả năng kết hợp, dung hòa giữa Nho giáo với “khoa học” hiện đại phương Tây. 
Vấn đề khó khăn ở chỗ, vào thời điểm đầu thế kỷ XX, những người theo 
Khuynh hướng Phản truyền thống ở Trung Quốc và Việt Nam lại đang phê phán 
gay gắt Nho giáo là cổ hủ lạc hậu, là thứ lễ giáo ăn thịt người. Nho giáo không 
những khiếm khuyết tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”, mà còn mâu thuẫn với 
“dân chủ” và “khoa học” như nước với lửa. Nho giáo là rào cản ngăn trở sự phát 
triển và công cuộc hiện đại hóa đất nước, cản trở việc học tập khoa học kỹ thuật 
và xây dựng thể chế chính trị dân chủ theo mô hình phương Tây hiện đại. Trong 
mắt những người Phản truyền thống, hiện đại hóa đất nước tất yếu phải gạt bỏ và 
đoạn tuyệt với Nho giáo truyền thống. Vậy thì, chủ trương kết hợp và dung hòa 
Nho giáo với “dân chủ” và “khoa học” hiện đại phương Tây của Tân Nho gia hiện 
đại Trung Quốc và những người theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam như 
Trần Trọng Kim, liệu có phải là cách làm thỏa đáng và khả thi? Trong bối cảnh đó, 
để có câu trả lời khẳng định, Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc và những người 
theo Khuynh hướng truyền thống ở Việt Nam buộc phải chứng minh được rằng, 
tuy không thành tựu như thể chế chính trị “dân chủ” và nền “khoa học” hiện đại 
của phương Tây, nhưng Nho giáo vốn hàm chứa mầm mống tư tưởng “dân chủ” 
và “khoa học”, hoặc chí ít, nếu không có mầm mống thì Nho giáo cũng không mâu 
thuẫn xung khắc với những tư tưởng này. Chỉ như vậy, mới có thể tạo điều kiện 
và cơ sở cho Nho giáo có thể tiếp nhận, dung nạp, kết hợp và dung hòa với “dân 
chủ” và “khoa học” một cách thuận lợi. Không chứng minh được điều này, đồng 
nghĩa với việc Nho giáo không còn lý do tồn tại. Đây là điểm mấu chốt buộc các 
nhà Nho hiện đại phải cải tạo, giải thích lại và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo, 
khiến Nho giáo có thể thích ứng và dung hòa với thể chế chính trị “dân chủ” và nền 
“khoa học” kỹ thuật phương Tây hiện đại. Ý thức được sự sống còn của Nho giáo 
phụ thuộc vào việc nghiên cứu mang tính đột phá về tư tưởng, hy vọng bằng sự cố 
gắng của mình có thể chấn hưng Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cố gắng giải thích 
lại và làm mới tư tưởng Nho giáo theo hướng hiện đại hóa, nhằm chứng minh học 
thuyết Nho giáo vốn hàm chứa tư tưởng “dân chủ” và “khoa học”. Từ đó khẳng 
định Nho giáo không những không đối lập, xung khắc với tư tưởng “dân chủ” và 
21Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
“khoa học” phương Tây hiện đại, mà còn bao hàm nhiều tư tưởng “dân chủ” và 
“khoa học”, thậm chí tư tưởng “dân chủ” Nho giáo còn ưu việt hơn thể chế chính 
trị dân chủ phương Tây.(3) 
1. Quan điểm của Trần Trọng Kim về tư tưởng “dân chủ” Nho giáo
Theo tác giả sách Nho giáo, về chính trị, Nho giáo quan niệm sự trị loạn trong 
thiên hạ phụ thuộc vào người lãnh đạo, người cầm quyền, không phụ thuộc vào 
loại hình chính thể. Người lãnh đạo có tài, có đức, thì nước trị. Người lãnh đạo vô 
tài, vô đức, thì nước loạn. Dù có chế độ hay, chính thể tốt, nhưng người lãnh đạo 
không có tài đức, đất nước cũng loạn. Vì thế, Nho giáo chủ trương người lãnh đạo 
phải là người có tài, có đức, luôn phải kính cẩn sửa mình và biết dùng người hiền 
giúp nước, giúp dân: 
“ta phải biết rằng quan niệm của Nho giáo về đường chính trị cho sự trị loạn 
trong xã hội do ở người hành chính, chớ không phải ở chính thể. Người hành chính 
mà có tài, có đức, thì nước được trị; người hành chính không có tài, không có đức, 
thì nước phải loạn. Dẫu chính thể có hay đến đâu mà người hành chính không ra 
gì, thì cũng hóa ra dở. Khổng tử nói rằng: “Văn Vũ chi chính bố tại phương sách, 
kỳ nhân tồn, tắc kỳ chính cử, kỳ nhân vong, tắc kỳ chính tức: việc chính trị của vua 
Văn vua Vũ bày ra ở trong sách. Nếu những người như vua Văn vua Vũ còn, thì 
cái chính trị ấy thi hành ra, nếu những người ấy mất, thì cái chính trị ấy hư hỏng” 
(“Trung dung”). Vậy việc chính trị hay dở cốt ở người hành chính”.(4) 
Trần Trọng Kim cho rằng, quan niệm “coi trọng người có tài có đức” trong 
chính trị của Nho giáo khác biệt với quan niệm “coi trọng loại hình chính thể” của 
phương Tây. Người phương Tây cho rằng, sự trị loạn trong nước phụ thuộc vào 
chính thể chứ không do người lãnh đạo, chỉ cần có chính thể tốt, người lãnh đạo 
cứ theo chính thể đó mà làm. Theo lý giải của Trần Trọng Kim, xét ra bên Đông 
bên Tây đều có sở trường và sở đoản của nó, nếu chỉ thiên về một mặt nào đó, đều 
không tốt. Vì rằng, có chính thể tốt nhưng người lãnh đạo không ra gì, thì chính 
thể tốt cũng hóa dở. Ngược lại, người lãnh đạo tốt mà chính thể dở, thì cũng hỏng. 
Từ đó Trần Trọng Kim chủ trương chiết trung, kết hợp Đông Tây, kết hợp Nho 
giáo với chính thể dân chủ phương Tây - “người lãnh đạo tốt” với “chính thể tốt”. 
Song Trần Trọng Kim vẫn nhấn mạnh và thiên về phương diện tu dưỡng đạo đức 
của người lãnh đạo, coi trọng yếu tố đạo đức, nhân nghĩa của người lãnh đạo hơn 
loại hình chính thể. Ông cho rằng dù ở chính thể nào, người lãnh đạo vẫn phải là 
người có đạo đức, nhân nghĩa và trung chính, xã hội mới tốt được: 
 “cứ lẽ trung, thì cần phải có chính thể tốt và người hành chính tốt. Nhưng 
trước sau vẫn cần có người nhân nghĩa trung chính mới hay được. Vậy lấy đạo mà 
sửa mình vẫn là việc trọng yếu trong chính trị”.(5) 
22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
Khi luận giải tư tưởng “dân chủ” của học thuyết Nho giáo, Trần Trọng Kim 
đặc biệt coi trọng phạm trù “quân quyền” và “trung quân”. Trong khi những người 
theo Khuynh hướng Phản truyền thống đương thời phê phán gay gắt phạm trù 
“quân quyền” và “trung quân” của Nho giáo là hủ bại, thối nát, Trần Trọng Kim 
lại khẳng định ý nghĩa hiện đại của phạm trù này. Trần Trọng Kim cho rằng, trước 
nay những người phê phán tư tưởng “quân quyền” và “trung quân” của Nho giáo 
là chuyên chế, hủ bại, không hợp thời, trái với thể chế dân chủ, lập hiến hay cộng 
hòa thời nay, là bởi họ chỉ hiểu “trung quân” theo nghĩa hẹp, ... à học tập, để kết hợp với tư tưởng luân lý đạo đức Nho giáo là 
“khoa học” phương Tây hiện đại, không phải thể chế chính trị “dân chủ” phương 
Tây. Mặt khác, có thể thấy lý do Trần Trọng Kim không tiếp nhận nền chính trị dân 
chủ phương Tây, vì theo ông, do theo đuổi khoa học cực đoan, tôn sùng cuộc sống 
vật chất thực dụng, thêm vào đó là nền dân chủ tự do thái quá và xem thường đạo 
đức luân lý con người, đã khiến xã hội phương Tây rơi vào khủng hoảng nghiêm 
trọng về văn hóa và xã hội. Ý thức được những hạn chế của văn hóa phương Tây 
đương thời, cố gắng hướng Việt Nam tránh vết xe đổ đó, là lý do khiến Trần Trọng 
Kim khước từ tiếp nhận và học tập nền chính trị dân chủ phương Tây, để quay lại 
kế thừa và phát huy tư tưởng chính trị “dân chủ” Nho giáo. Điều này cho thấy, lựa 
chọn của ông ít nhiều đã qua cân nhắc và phản tỉnh về ưu nhược điểm của văn hóa 
và thể chế chính trị dân chủ phương Tây hiện đại. 
Ở thời điểm Việt Nam trong buổi Âu Á giao thời, với sự tồn tại đan xen của 
những giá trị cũ mới, trong bối cảnh đa phần trí thức đương thời đua nhau phê phán 
Nho giáo gay gắt, cả xã hội quay lưng hắt hủi, ghẻ lạnh và quy mọi tội lỗi cho Nho 
giáo, ít ai đoái hoài, suy xét đến di sản Nho giáo và giá trị hiện đại của nó, thì nỗ 
lực cải tạo và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” của Trần Trọng 
Kim nhằm kế thừa, phát huy và khẳng định giá trị hiện đại của Nho giáo, từ đó kết 
hợp ưu điểm của Nho giáo truyền thống với “khoa học” hiện đại phương Tây để 
kiến tạo mô thức văn hóa Việt Nam tương lai, là việc làm có ý nghĩa và đáng được 
khẳng định. Nó thể hiện tinh thần tự nhiệm và sứ mệnh của một trí thức Việt Nam 
đầu thế kỷ XX với di sản văn hóa Nho giáo truyền thống và tương lai văn hóa dân 
tộc. Đó cũng là sự khác biệt giữa Trần Trọng Kim với đa phần trí thức Việt Nam 
đương thời trong cách nhìn nhận và đối đãi với di sản Nho giáo truyền thống. 
Nhìn từ góc độ phát triển của lịch sử Nho giáo Việt Nam hiện đại, cùng với 
nỗ lực hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” của Phan Bội Châu trong 
Khổng học đăng,(50) Trần Trọng Kim là một trong những người Việt Nam đầu tiên 
đưa vấn đề “dân chủ” vào Nho giáo để bàn bạc, thảo luận. Qua đó tiến hành giải 
thích lại và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ”. Đây là phản ứng tích 
cực và chủ động đầu tiên của nhà nho Việt Nam trên con đường tìm kiếm cơ sở tồn 
tại mới cho Nho giáo trong xã hội hiện đại. Thay vì xót xa, tiếc nuối trước sự suy 
tàn của Nho giáo, hoặc hô hào chấn hưng Nho giáo bằng những khẩu hiệu tuyên 
truyền như một số nhà nho Việt Nam đương thời, Trần Trọng Kim đã hiện thực hóa 
việc chấn hưng Nho giáo bằng giải pháp cụ thể – hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về 
mặt “dân chủ”. So với nhà nho Việt Nam đương thời, nhận thức và nỗ lực hiện đại 
hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ” của Trần Trọng Kim, thể hiện một cách 
44 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
nhìn mới mẻ, độc đáo và có phần sáng tạo. Nỗ lực hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo 
về mặt “dân chủ” của Trần Trọng Kim cũng cho thấy chuyển động tích cực trong 
học thuật Nho giáo Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nó đã đưa Nho giáo truyền 
thống Việt Nam phát triển theo một hướng mới - xu hướng chấn hưng Nho giáo 
bằng phương thức hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo về mặt “dân chủ”, “khoa học”, 
“triết học” và “phương pháp triết học” Đây cũng là xu hướng vận động và phát 
triển chung của Nho giáo khu vực Đông Á.
 N T Đ
CHÚ THÍCH
(1)	 Về	lý	luận	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	gia	và	mối	quan	hệ	của	nó	với	vấn	đề	hiện	đại	hóa	
Trung	Quốc,	xin	xem	Phương	Khắc	Lập,	Tân Nho học hiện đại dữ Trung Quốc hiện đại hóa 
(Thiên	Tân:	Thiên	Tân	Nhân	dân	xuất	bản	xã,	1997).	方克立:《現代新儒學與中國現代化》
(天津:	天津人民出版社,1997年);	Trịnh	Gia	Đống,	Đương	đại	Tân	Nho	học	luận	hằng,	“Tân	
Nho	gia	dữ	Trung	Quốc	hiện	đại	hóa”	(Đài	Bắc:	Quế	Quan	đồ	thư	cổ	phần	hữu	hạn	công	ty,	
1995),	 tr.	 51-67.	鄭家棟:《當代新儒學論衡》,〈新儒家與中國現代化〉(臺北: 桂冠圖書股份有
限公司,1995年,	頁51-67.
(2)	 Về	động	cơ,	mục	đích	viết	sách	Nho giáo	và	nội	dung	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	và	phương	
pháp	triết	học	Nho	giáo	của	Trần	Trọng	Kim	trong	sách	Nho giáo,	xin	xem	thêm	Nguyễn	Thọ	
Đức,	“Quá	trình	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	học	của	Tân	Nho	gia	hiện	đại	Trung	Quốc	và	
ảnh	hưởng	của	nó	đến	Nho	học	Việt	Nam	đầu	thế	kỷ	XX:	khảo	sát	qua	trường	hợp	Lương	
Thấu	Minh	và	Trần	Trọng	Kim”,	trong	Đại	học	Quốc	gia	Hà	Nội	-	Trường	Đại	học	KHXH&NV	
-	Khoa	Đông	phương	học,	Nhật Bản và thế giới phương Đông (Kỷ	yếu	Hội	thảo	quốc	tế	Đông	
phương	học	Việt	Nam	lần	thứ	tư)	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Thế	giới,	2009),	tr.	241-261.	
(3)	 Trong	Nho giáo,	Trần	Trọng	Kim	tiến	hành	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	giáo	ở	cả	hai	phương	
diện	“dân	chủ”	và	“khoa	học”,	do	khuôn	khổ	của	bài	viết,	chúng	tôi	sẽ	trình	bày	vấn	đề	hiện	
đại	hóa	tư	tưởng	Nho	giáo	về	mặt	“khoa	học”	của	Trần	Trọng	Kim	trong	Nho giáo	ở	một	bài	
viết	khác.	
(4)	 Trần	Trọng	Kim,	Nho giáo	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Văn	hóa-Thông	tin,	2001),	tr.	168-169.
(5)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	169.	
(6)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	172.
(7)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	172.
(8)	 Theo	cách	hiểu	và	dùng	từ	của	Trần	Trọng	Kim,	chữ	“duy	dân”	ở	đây	có	nghĩa	là	“dân	chủ”	(NTĐ).
(9)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	174-175.
(10)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	175.
(11) Nho giáo,	sđd,	tr.	252.
(12)	 Về	các	bài	phê	phán	Nho	giáo	của	Phan	Khôi,	xin	xem	Hồ sơ Phan Khôi,	Lại	Nguyên	Ân	sưu	
tầm,	biên	soạn,	nguồn:	 
(13)	 Phan	Khôi:	“Đọc	cuốn	“Nho	giáo”	của	ông	Trần	Trọng	Kim”,	Phụ nữ tân văn,	Sài	Gòn,	số	54	
(29/5/1930),	trong	Hồ sơ Phan Khôi,	tài	liệu	đã	dẫn.
(14)	 Phan	Khôi:	“Đọc	cuốn	“Nho	giáo”	của	ông	Trần	Trọng	Kim”,	bài	đã	dẫn.
(15)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	36.
45Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
(16)	 Nho giáo,	sđd,	tr.	37.
(17)	 Phan	Khôi:	“Đọc	cuốn	“Nho	giáo”	của	ông	Trần	Trọng	Kim”,	bài	đã	dẫn.
(18)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Phụ nữ tân văn, Sài	Gòn,	
số	60	(10/7/1930), in	lại	trong Trần	Trọng	Kim:	Nho giáo,	Phụ	lục	(Hà	Nội:	Nxb	Văn	học,	
2003),	tr.	671-687.	
(19)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	683.	
(20)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	684.	
(21)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	684.	
(22)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	684.	
(23)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	685.
(24)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	685.
(25)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mấy	lời	bàn	với	Phan	tiên	sinh	về	Khổng	giáo”,	Nho giáo,	sđd,	tr.	685.
(26)	 Phan	Khôi:	“Mời	Trần	Trọng	Kim	tiên	sanh	đi	với	Khổng	tử	Mạnh	tử	đến	nhà	M.	Logique	
chơi,	tại	đó,	chúng	ta	sẽ	nói	chuyện”,	Phụ nữ tân văn,	Sài	Gòn,	số	54	(29/5/1930),	trong	
Hồ sơ Phan Khôi,	Lại	Nguyên	Ân	sưu	tầm,	biên	soạn,	nguồn:	
Phankhoi/index.htm 
(27)	 Phan	Khôi:	“Mời	Trần	Trọng	Kim	tiên	sanh	”,	bài	đã	dẫn.
(28)	 Phan	Khôi:	“Mời	Trần	Trọng	Kim	tiên	sanh	”,	bài	đã	dẫn.	
(29)	 Phan	Khôi:	“Mời	Trần	Trọng	Kim	tiên	sanh	”,	bài	đã	dẫn.
(30)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về	nhà	học	của	ta	mà	nói	chuyện”,	Phụ nữ 
tân văn,	Sài	Gòn,	số	71	(25/9/1930);	số	72	(2/10/1930);	số	74	(16/10/1930),	in	lại	trong	Trần	
Trọng	Kim:	Nho giáo,	Phụ	lục	(Hà	Nội:	Nxb	Văn	học,	2003),	tr.	687-720.
(31)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	706.	
(32)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	706.
(33)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	716.
(34)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	716.
(35)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	716.
(36)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	716.
(37)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	717.
(38)	 Trần	Trọng	Kim:	“Mời	Phan	Khôi	tiên	sanh	trở	về”,	bài	đã	dẫn,	tr.	717.
(39)	 Xem	chú	thích	2.
(40)	 Về	tư	tưởng	văn	hóa	của	Lương	Thấu	Minh,	xin	xem	Nguyễn	Kim	Sơn,	“Lương	Thấu	Minh	
và	 sự	 khởi	 xướng	Tân	Nho	học	 hiện	 đại”,	 tạp	 chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,	
Chuyên	san	Khoa	học	Xã	hội	và	Nhân	văn,	số	1,	2005.
(41)	 Lương	Thấu	Minh,	Đông	Tây	văn	hóa	cập	kỳ triết học,	(Bắc	Kinh:	Thương	vụ	Ấn	thư	quán,	
1999),	tr.	72.	 梁漱溟:《東西文化及其哲學》(北京:商務印書館,1999年,頁72).
(42)	 Lương	Thấu	Minh,	sđd,	tr.	72.
(43)	 Về	việc	xác	lập	mô	thức	văn	hóa	Việt	Nam	tương	lai	của	Trần	Trọng	Kim	trong	Nho giáo,	xin	
xem	Nguyễn	Thọ	Đức,	“Quá	trình	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	học	của	Tân	Nho	gia”,	tài	
liệu	đã	dẫn,	tr.	241-261.
46 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
(44)	 Về	thuyết	“Tam	thống”	và	thuyết	“Đạo	đức	lương	tri	tự	ngã	khảm	hạm”	của	Mâu	Tông	Tam,	
xin	xem	Trịnh	Gia	Đống,	Hiện đại Tân Nho học khái luận, Chương	1,	mục	5:	Dân	chủ,	khoa	
học	dữ	Nho	học	đệ	tam	kỳ	phát	triển, 	(Nam	Ninh:	Quảng	Tây	Nhân	dân	xuất	bản	xã,	1990),	
tr.25-35.	鄭家棟:《現代新儒學概論》,第一章〈作爲文化思潮的新儒學〉,第五節「科學、民
主與儒學第三期發展」(南寧:廣西人民出版社,1990年,	頁25-35;Trịnh	 Gia	 Đống,	Đương 
đại Tân Nho học luận hằng, “Tân	Nho	gia	dữ	Trung	Quốc	hiện	đại	hóa”	(Đài	Bắc:	Quế	Quan	
đồ	thư	cổ	phần	hữu	hạn	công	ty,	1995),	tr.	51-67.	鄭家棟:《當代新儒學論衡》,〈新儒家與
中國現代化〉(臺北:桂冠圖書股份有限公司,1995年,	頁51-67). 
(45)	 Vi	Chính	Thông,	Nho gia với Trung Quốc ngày nay	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Chính	trị	Quốc	gia,	
1996),	tr.	407.	
(46)	 Xin	xem	Nguyễn	Thọ	Đức,	“Tìm	hiểu	xu	hướng	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	giáo	trong	Khổng 
học đăng	của	Phan	Bội	Châu”, tạp	chí Hán Nôm,	số	6,	2011.	
(47)	 Theo	Vi	Chính	Thông,	một	xã	hội	được	coi	là	tự	do	dân	chủ	phải	là	xã	hội	đảm	bảo	các	điều	
kiện	sau:	“1)	Một	bản	hiến	pháp	thành	văn;	2)	Nghị	viện	các	cấp	gồm	các	đại	biểu	nhân	dân;	
3)	Một	chính	phủ	có	thể	chấp	nhận	những	nhiệm	vụ	hiến	pháp	giao	phó	và	có	thể	chịu	trách	
nhiệm	trước	nhân	dân;	4)	Tòa	án	các	cấp	có	thể	độc	lập	với	hệ	thống	hành	chính;	5)	Những	
quan	tòa	và	luật	pháp	không	chịu	ảnh	hưởng	của	tín	ngưỡng,	đảng	phái	và	có	thể	kiên	trì	
chính	nghĩa;	6)	Những	đoàn	thể	lấy	việc	xúc	tiến	tự	do	làm	tôn	chỉ	của	mình;	7)	Những	cơ	
quan	ngôn	luận	tuyệt	đối	tự	do	và	công	minh	chính	trực;	8)	Đảng	đối	lập	có	thực	lực;	9)	Chế	
độ	bầu	cử	thực	sự	thể	hiện	ý	dân;	10)	Hệ	thống	giáo	dục	không	đi	ngược	lại	những	nguyên	
tắc	dân	chủ	tự	do”.	Vi	Chính	Thông,	Nho gia với Trung Quốc ngày nay, sđd,	tr.	167-168.	
(48)	 Vi	Chính	Thông,	Nho gia với Trung Quốc ngày nay,	sđd,	tr.	205,	207.	
(49)	 Trần	Ngọc	Vương,	“Tân	thư	và	sự	vận	động	của	tư	tưởng	dân	chủ	ở	Việt	Nam	trong	hai	
mươi	năm	đầu	thế	kỷ	XX”,	trong	Đinh	Xuân	Lâm	(chủ	biên),	Tân thư và xã hội Việt Nam cuối 
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Chính	trị	Quốc	gia,	1997),	tr.	289-290.	
(50)	 Xin	xem	Nguyễn	Thọ	Đức,	“Tìm	hiểu	xu	hướng	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	giáo	trong	Khổng 
học đăng	của	Phan	Bội	Châu”, tạp	chí Hán Nôm,	số	6,	2011.	
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.	 Trần	Trọng	Kim,	Nho giáo	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Văn	hóa-Thông	tin,	2001).
2.	 Hồ sơ Phan Khôi,	Lại	Nguyên	Ân	sưu	tầm,	biên	soạn,	nguồn:	
Phankhoi/index.htm. 
3.	 Nguyễn	Kim	Sơn,	“Lương	Thấu	Minh	và	sự	khởi	xướng	Tân	Nho	học	hiện	đại”,	tạp	chí Khoa 
học Đại học Quốc gia Hà Nội,	Chuyên	san	Khoa	học	Xã	hội	và	Nhân	văn,	số	1,	2005.
4.	 Đinh	Xuân	Lâm	(chủ	biên),	Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,	(Hà	
Nội:	Nhà	xuất	bản	Chính	trị	Quốc	gia,	1997).	
5.	 Vi	Chính	Thông,	Nho gia với Trung Quốc ngày nay	(Hà	Nội:	Nhà	xuất	bản	Chính	trị	Quốc	gia,	1996).	
6.	 Viện	Nghiên	cứu	Hán	Nôm,	tạp	chí Hán Nôm,	số	6,	năm	2011.	
7.	 Trường	Đại	học	KHXH&NV	-	Khoa	Đông	phương	học,	Nhật Bản và thế giới phương Đông (Kỷ	
yếu	Hội	thảo	quốc	tế	Đông	phương	học	Việt	Nam	lần	thứ	tư)	(Hà	Nội:	Nxb	Thế	giới,	2009).	
8.	 Trường	Đại	học	KHXH&NV	-	Trung	tâm	Nghiên	cứu	Trung	Quốc,	Kỷ	yếu	Hội	thảo	quốc	tế	
Chu Hy với Nho học Đông Á,	Hà	Nội,	tháng	8/2010.	
47Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017
9.	 Lương	Thấu	Minh,	Đông Tây văn hóa cập kỳ triết học,	(Bắc	Kinh:	Thương	vụ	Ấn	thư	quán,	
1999).	梁漱溟:《東西文化及其哲學》(北京:商務印書館,1999年).
10.	 Phương	Khắc	Lập,	Tân Nho học hiện đại dữ Trung Quốc hiện đại hóa	(Thiên	Tân:	Thiên	
Tân	Nhân	dân	xuất	bản	xã,	1997).	方克立:《現代新儒學與中國現代化》(天津:天津人民出
版社,1997年).
TÓM TẮT
Phong	 trào	chấn	hưng	và	hiện	đại	hóa	 tư	 tưởng	Nho	giáo	ở	Trung	Quốc	khởi	phát	 từ	
những	năm	đầu	thập	niên	ba	mươi	thế	kỷ	XX,	phát	triển	mạnh	mẽ	và	liên	tục	thành	một	dòng	tư	
tưởng	lớn	trong	lịch	sử	tư	tưởng	hiện	đại	Trung	Quốc	-	trào	lưu	Tân Nho học hiện đại Trung Quốc.	
Ở	Việt	Nam,	hoạt	động	chấn	hưng	Nho	giáo	cũng	diễn	ra	khá	rầm	rộ	vào	thập	niên	ba	mươi,	bốn	
mươi	thế	kỷ	XX. Tác	phẩm	Nho giáo	của	Trần	Trọng	Kim	là	một	trong	những	trước	tác	tiêu	biểu	
của	hoạt	động	chấn	hưng	Nho	giáo	giai	đoạn	này.	Đặt	vấn	đề	tìm	hiểu	tư	tưởng	“dân	chủ”	Nho	
giáo	của	Trần	Trọng	Kim	trong	tác	phẩm	Nho giáo,	công	việc	cụ	thể	bài	viết	triển	khai	là:	phác	
thảo	những	nội	dung	và	quan	điểm	cơ	bản	của	Trần	Trọng	Kim	về	tư	tưởng	“dân	chủ”	Nho	giáo	
trong	tác	phẩm	Nho giáo,	trên	cơ	sở	đó	bài	viết	đưa	ra	đánh	giá	ưu	nhược	điểm	về	cách	nhìn	của	
Trần	Trọng	Kim	về	tư	tưởng	“dân	chủ”	Nho	giáo.	Ngoài	ra,	bài	viết	bước	đầu	đặt	tác	phẩm	Nho 
giáo vào	bối	cảnh	vận	động	và	phát	triển	chung	của	Nho	giáo	khu	vực	đầu	thế	kỷ	XX,	sơ	bộ	tìm	
hiểu	những	điểm	chung	và	khác	biệt	trong	nội	dung	và	thao	tác	hiện	đại	hóa	tư	tưởng	Nho	giáo	
về	mặt	“dân	chủ”	giữa	Trần	Trọng	Kim	với	Tân	Nho	gia	hiện	đại	Trung	Quốc.
ABSTRACT 
CONFUCIANISM AND DEMOCRATIC THOUGHT DISCUSS ON TRẦN TRỌNG KIM’S 
THOUGHT ON CONFUCIAN DEMOCRACY IN HIS WORK CONFUCIANISM
The	revival	and	modernization	movement	of	Confucian	thought	 in	China	originated	from	
the	 early	 1930s	 of	 the	 twentieth	 century,	 strongly	 and	 continuously	 developed	 into	 a	 school	
of	 thought	 in	 the	history	of	modern	Chinese	 thought	 -	modern	Chinese	Neo-Confucianism.	 In	
Vietnam,	 the	Confucian	Revival	Movement	 took	place	 rapidly	 in	 the	1930s-1940s.	Trần	Trọng	
Kim’s	Confucianism	is	one	of	the	typical	writings	of	revival	activities	of	Confucianism	during	this	
period.	To	examine	the	Confucius	“Democratic”	thought	of	Trần	Trọng	Kim	in	Confucianism,	this	
paper	tries	to	brief	the	content	and	basic	viewpoint	of	Trần	Trọng	Kim’s	thought	on	“Confucian	
Democracy”	 in	 Confucianism,	 on	 that	 basis,	 to	 evaluate	 the	 advantages	 and	 disadvantages	
of	 Trần	 Trọng	 Kim’s	 vision	 on	 “Confucian	 Democratic”	 thought.	 Besides,	 the	 paper	 initially	
studied	Confucianism	in	the	general	development	context	of	Confucianism	in	the	region	in	early	
twentieth	 century,	 a	 preliminary	 examine	 the	 similarities	 and	 differences	 in	 content	 and	ways	
of	modernization	of	Confucian	 thought	 in	 terms	of	 “Democracy”	between	Trần	Trọng	Kim	and	
modern	Chinese	Neo-Confucian.	

File đính kèm:

  • pdfnho_giao_va_tu_tuong_dan_chu.pdf