Phân tích kiểu hình lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp

Lipid, lipoprotein đóng vai trò quan trọng

trong sinh bệnh học của bệnh tim mạch, trong

đó rối loạn lipid, lipoprotein được xem là yếu tố

nguy cơ chính của bệnh mạch vành(14). Việc tầm

soát và đánh giá kết quả điều trị các rối loạn này

là quan trọng và thường quy trong công tác

phòng bệnh, và dựa hoàn toàn vào các xét

nghiệm phân tích chúng.

Lipid được vận chuyển trong tuần hoàn

dưới dạng các hạt lipoprotein không đồng nhất

về thành phần, kích thước và sinh bệnh học. Có

năm loại lipoprotein (Lp) theo tỷ trọng gồm

chylomicron, Lp tỷ trọng rất thấp (VLDL), Lp tỷ

trọng trung bình (IDL), Lp tỷ trọng thấp (LDL)

và Lp tỷ trọng cao (HDL), trong đó LDL được

xem là nhóm có tính sinh bệnh học cao nhất do

mang đến 70‐78% cholesterol của tuần hoàn và

có tính xâm nhập thành mạch cao. LDL là một

nhóm các hạt không đồng nhất về cấu tạo, hạt

nhỏ hơn có cấu trúc đậm đặc hơn và có tính gây

xơ vữa cao hơn, do đó người ta rất quan tâm đến

kiểu hình LDL trong chương trình kiểm soát các

rối loạn lipid, lipoprotein(10), ATP III (Adult

Treatment Panel III) xem kiểu hình LDL nhỏ,

đậm đặc là yếu tố nguy cơ nổi bật của bệnh

mạch vành. Các nghiên cứu đoàn hệ và cắt

ngang trước đây đều nhận thấy kiểu hình LDL

nhỏ, đậm đặc có tính gây xơ vữa gấp 2‐3 lần so

với các LDL lớn, nhẹ(1,5,6,9)

pdf 9 trang dienloan 6340
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích kiểu hình lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích kiểu hình lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp

Phân tích kiểu hình lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
295
 PHÂN TÍCH KIỂU HÌNH LIPOPROTEIN TỶ TRỌNG THẤP  
BẰNG KỸ THUẬT ĐIỆN DI TRONG ỐNG THẠCH POLYACRYLAMIDE 
Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP 
Trần Thành Vinh*, Đặng Vạn Phước **, Phan Thị Danh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở đối tượng hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) 
người Việt Nam và xác định mối liên quan kích thước trung bình hạt LDL với độ nặng của bệnh cảnh lâm sàng 
và các yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành. 
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích cắt ngang bằng kỹ thuật điện di trong 
ống thạch polyacrylamide, phân tích dưới nhóm LDL trên 309 bệnh nhân người Việt Nam có hội chứng mạch 
vành cấp: 204 nam, 105 nữ, tuổi trung bình 63   13 tuổi (nhóm bệnh) và 72 người tình nguyện không bị hội 
chứng mạch vành cấp, được chọn tương đương với nhóm bệnh về độ tuổi, giới, tỷ lệ cao huyết áp và bệnh đái 
tháo đường (nhóm chứng). Thu thập mẫu từ tháng 1/2011 đến tháng 11/2011 tại bệnh viện Chợ Rẫy. 
Kết quả: Kích thước trung bình LDL trong huyết tương có phân phối chuẩn ở cả hai nhóm đối tượng và ở 
bệnh nhân HCMVC (257,5   14,3 Ao) nhỏ hơn có ý nghĩa so với nhóm không bệnh HCMVC (261,7   8,2 Ao). 
Bệnh cảnh lâm sàng càng nặng kích thước hạt LDL càng nhỏ: không bệnh HCMVC (261,7   8,2 Ao), Đau thắt 
ngực không ổn định (258,9   13 Ao), nhồi máu cơ tim không ST chênh lên (258,7   11,5 Ao) và nhồi máu cơ tim 
có ST chênh lên (257,0   14,3 Ao). Kích thước trung bình LDL liên quan đến giới tính ở nhóm có HCMVC và 
tình trạng béo bụng ở cả hai nhóm đối tượng; không liên quan tuổi, tình trạng hút thuốc lá, quá cân, bệnh cao 
huyết áp, đái tháo đường. Kích thước trung bình LDL cũng có tương quan thuận với nồng độ HDL‐cholesterol (r 
= 0,26) và nghịch với nồng độ triglyceride (r=‐0,39) và cholesterol toàn phần (r =‐0,29), không tương quan với 
nồng độ LDL‐cholesterol huyết tương. Tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp 
là 46,3 % cao hơn so với nhóm chứng 40,3% 
Kết luận: Kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc có liên quan đến hội chứng mạch vành cấp và các yếu tố nguy cơ 
tim mạch như giới  tính,  tình  trạng béo bụng, nồng độ  triglyceride, HDL cholesterol và cholesterol  toàn phần 
trong huyết tương. 
Từ khóa: Lipoprotein tỷ trọng thấp; dưới nhóm LDL; LDL nhỏ, đậm đặc; hội chứng mạch vành cấp. 
ABSTRACT 
ANALYSIS OF LOW DENSITY LIPOPROTEIN PHENOTYPES BY POLYACRYLAMIDE TUBE GEL 
ELECTROPHORESIS IN PATIENTS WITH ACUTE CORONARY SYNDROME 
Tran Thanh Vinh, Dang Van Phuoc, Phan Thi Danh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 295 – 303  
Objective: To  determine  the  prevalence  of  small,  dense Low Density Lipoprotein  (LDL)  in Vietnamese 
patients with Acute Coronary Syndrome (ACS). Subsequently evaluate whether there is a significant correlation 
between patients with clinically severe ACS, patients with associated risk  factors  linked to ACS and  increased 
levels of small LDL particles.  
Methodology: A  cross‐section  analysis was  undertaken  using  polyacrylamide  gel  tube  electrophoresis. 
* Khoa Hóa Sinh – BV Chợ Rẫy   ** Đại Học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS Trần Thành Vinh   ĐT: 0908487348   Email: thanhvinhtran2002@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
296
Results were derived from a patient group made up of 309 (205 males and 105 females) Vietnamese patients with 
ACS, aged 63   13 years. As a control, 72  (29 males and 43  females) Vietnamese volunteers were  tested and 
matched  for  age,  gender,  hypertension  rate  and  diabetes mellitus. All  samples were  taken  during  the  period 
between January 2011 and November 2011 at Cho Ray Hospital.  
Results:  There was  an  increased  prevalence  of  small,  dense  LDL  type  in  patients with ACS  (46.3%) 
compared with  control  subjects  (40.3%). The  frequency  distributions  of mean LDL  particle  sizes  taken  from 
plasma  samples  across  the  patient  and  control  groups were  normal.  The mean  LDL  particle  size  in  plasma 
samples from patients with ACS (257.5   14.3 Ao) was significantly smaller than people without ACS (261.7   
8.2 Ao). When comparing the mean LDL particle size across the various clinical conditions (non ACS 261.7   8.2 
Ao, unstable angina 258.9   13 Ao, non ST elevation myocardial  infarction 258.7   11.5 Ao and ST elevation 
myocardial infarction subgroup 257.0   14.3 Ao) results indicated a significant difference. Results also suggest a 
strong relationship between the mean LDL particle size with gender in ACS patients and waist to hip ratio in 
both study groups, but not with age, body mass index, smoking history or diabetes mellitus. There was a negative 
correlation between the mean LDL particle size and triglyceride (r =‐0.39), total cholesterol (r =  ‐0.29) while a 
positive correlation was found in plasma samples with High Density Lipoprotein (HDL) ‐ cholesterol levels. There 
was no  significant  correlation  between  the mean LDL  particle  sizes  in  plasma  samples with LDL‐cholesterol 
levels. 
Conclusions: Results  suggest  a  positive  relationship  between  the  prevalence  of  small,  dense  LDL  type 
particle size and the risk of ACS. More specifically mean LDL particle size showed an association with clinical 
conditions. The mean size of LDL particles was noticeably larger in males than female in ACS cases and smaller 
LDL particles where generally found in those with higher waist to hip ratios. There was also a correlation between 
LDL particle size and the levels of triglyceride, total cholesterol, HDL‐cholesterol. 
Key words:  LDL  sub  fractions;  LDL  subclass  phenotypes;  small,  dense  LDL;  polyacrylamide  tube  gel 
electrophoresis; gradient gel electrophoresis; coronary heart disease; acute coronary syndrome  
Lipid,  lipoprotein  đóng  vai  trò  quan  trọng 
trong  sinh bệnh học  của bệnh  tim mạch,  trong 
đó rối loạn lipid, lipoprotein được xem là yếu tố 
nguy cơ chính của bệnh mạch vành(14). Việc tầm 
soát và đánh giá kết quả điều trị các rối loạn này 
là  quan  trọng  và  thường  quy  trong  công  tác 
phòng  bệnh,  và  dựa  hoàn  toàn  vào  các  xét 
nghiệm phân tích chúng.  
Lipid  được  vận  chuyển  trong  tuần  hoàn 
dưới dạng các hạt lipoprotein không đồng nhất 
về thành phần, kích thước và sinh bệnh học. Có 
năm  loại  lipoprotein  (Lp)  theo  tỷ  trọng  gồm 
chylomicron, Lp tỷ trọng rất thấp (VLDL), Lp tỷ 
trọng  trung bình  (IDL), Lp  tỷ  trọng  thấp  (LDL) 
và Lp  tỷ  trọng  cao  (HDL),  trong  đó LDL  được 
xem là nhóm có tính sinh bệnh học cao nhất do 
mang đến 70‐78% cholesterol của  tuần hoàn và 
có  tính xâm nhập  thành mạch cao. LDL  là một 
nhóm các hạt không đồng nhất về cấu  tạo, hạt 
nhỏ hơn có cấu trúc đậm đặc hơn và có tính gây 
xơ vữa cao hơn, do đó người ta rất quan tâm đến 
kiểu hình LDL trong chương trình kiểm soát các 
rối  loạn  lipid,  lipoprotein(10),  ATP  III  (Adult 
Treatment Panel III) xem kiểu hình LDL nhỏ, 
đậm  đặc  là  yếu  tố  nguy  cơ  nổi  bật  của  bệnh 
mạch  vành.  Các  nghiên  cứu  đoàn  hệ  và  cắt 
ngang  trước đây đều nhận  thấy kiểu hình LDL 
nhỏ, đậm đặc có tính gây xơ vữa gấp 2‐3 lần so 
với các LDL lớn, nhẹ(1,5,6,9) 
Trong một  thời  gian dài người  ta  tìm  cách 
phân tích LDL một cách có hiệu quả, tuy nhiên 
các  xét  nghiệm  chỉ  đạt  đến  việc  định  lượng 
cholesterol,  một  lipid  chiếm  tỷ  lệ  nhiều  nhất 
trong  hạt  LDL  (40‐47%),  và  sau  đó  là  LDL‐
cholesterol và apolipoprotein B (apo B) là thành 
phần  cholesterol  và  protein  có  trong  hạt  LDL, 
tuy nhiên  tác giả Otvos  J và  các  cộng  sự đăng 
trên tạp chí tim mạch học Hoa Kỳ năm 2002 cho 
thấy các xét nghiệm này là gián tiếp cho kết quả 
ước  tính dưới mức nguy  cơ  thật  sự. Trong khi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
297
đó, các xét nghiệm khảo sát trực tiếp LDL và các 
dưới nhóm của nó (LDL subclasses) chỉ có tại các 
viện nghiên cứu lớn do yêu cầu khắc khe về kỹ 
thuật,  tốn nhiều  thời gian và  các  trang  thiết bị 
đắt  tiền. Ngày nay nhờ  tiến bộ  trong kỹ  thuật 
người ta đã có thể phân tích các thành phần Lp 
và các dưới nhóm khá dễ dàng trên các hệ thống 
tự động, điều này giải quyết hầu hết các nhược 
điểm nêu trên và tạo điều kiện cho việc bắt đầu 
ứng  dụng  trên  lâm  sàng. Có  ba  kỹ  thuật  phổ 
biến trên thế giới để phân tích Lp là siêu ly tâm, 
điện  di  và  cộng  hưởng  từ  hạt  nhân. Kỹ  thuật 
thích hợp nhất cho ứng dụng lâm sàng là điện di 
trên thạch polyacrylamide. Các nghiên cứu trước 
đây  cho  thấy  kiểu  rối  loạn  lipid,  lipoprotein  ở 
người Việt Nam không giống với các nước phát 
triển(13,12) và việc phân  tích các Lp  tại Việt Nam 
còn hạn chế, chưa  thấy công bố phân  tích dưới 
nhóm LDL. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
* Phương pháp  
Phân tích cắt ngang, tiền cứu trên đối tượng 
bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp và người 
không có bệnh hội chứng mạch vành cấp người 
Việt Nam  tại bệnh viện Chợ Rẫy,  thời gian  từ 
tháng 01/2011 đến tháng 11/2011. 
* Đối tượng nghiên cứu 
‐  Đối  tượng  là  bệnh nhân  được  chẩn  đoán 
xác định hội chứng mạch vành cấp tại khoa Nội 
Tim Mạch và Khoa Can Thiệp Tim Mạch bệnh 
viện Chợ Rẫy chưa điều trị bằng statin, tiền căn 
không dùng thuốc liên quan đến lipid như thuốc 
hạ  lipid, ngừa  thai, chẹn ,  lợi tiểu. Không mắc 
các bệnh cấp hay mãn tính trừ cao huyết áp và 
đái tháo đường là hai yếu tố nguy cơ chính của 
bệnh mạch vành(14). Bệnh nhân ký đồng ý tham 
gia nghiên cứu (hoặc người nhà ký trong trường 
hợp bệnh nhân không thể ký được). Loại ra khỏi 
nghiên  cứu  nếu  từ  chối  tham  gia  nghiên  cứu 
(không  cần giải  thích  lý do) hoặc phát hiện  có 
bệnh đi kèm trừ hai bệnh nêu trên. Chuyển sang 
nhóm  chứng  nếu  có  bằng  chứng  xác  định  hội 
chứng mạch vành cấp do co thắt mạch vành mà 
không  có  tổn  thương  (qua kết quả  chụp mạch 
vành trong quá trình can thiệp). 
Đau thắt ngực không ổn định 
Là đau ngực xảy ra cả những  lúc nghĩ ngơi 
hoặc  gắng  sức  nhẹ,  kéo  dài  trên  20  phút  nếu 
không  cắt  cơn  bằng  nitroglycerin,  hoặc  triệu 
chứng đau  thắt ngực nặng và mới xảy ra trong 
vòng  1  tháng,  đau  thắt  ngực  ổn  định  nhưng 
ngày càng nặng hơn: đau nhiều hơn, kéo dài hơn 
hay nhiều cơn trong ngày hơn, hay điện tâm đồ 
có  đoạn ST  chênh xuống nhưng không  có dấu 
hoại tử cơ tim. 
Nhồi máu cơ tim 
Theo  tổ  chức  Y  Tế  Thế  Giới NMCT  được 
chẩn đoán khi hội đủ 2  trong 3  tiêu chuẩn sau: 
(1) Lâm sàng có đau thắt ngực kiểu mạch vành 
với cường độ lớn hơn, thời gian kéo dài hơn 15‐
30 phút và không giảm đau khi nghỉ ngơi hoặc 
ngậm dưới  lưỡi nitroglycerin.  (2) Điện  tâm  đồ: 
phù  hợp  với  nhồi máu  cơ  tim  (NMCT)  hoặc 
thiếu máu cơ tim. (3) Tăng men tim đặc hiệu cho 
tổn thương cơ tim (Troponin I,T và CK‐MB). 
ST chênh lên 
 ST chênh  lên mới hoặc giả định  là mới sau 
điểm  J,  ≥  2  chuyển  đạo  liên  tiếp,  ≥ 1mm  ở  các 
chuyển đạo V1, V2, V3 hoặc ≥ 2mm ở các chuyển 
đạo khác. 
Bệnh  nhân  được  chia  thành  3  nhóm  theo 
mức độ nặng lâm sàng: đau thắt ngực không ổn 
định  (ĐTNKOĐ),  nhồi máu  cơ  tim  không  ST 
chênh lên (NMCTKSTC) và nhồi máu cơ tim ST 
chênh lên (NMCTSTC). 
 ‐ Nhóm  chứng  là  những  người  tham  gia 
khám sức khỏe định kỳ tại bệnh viện Chợ Rẫy, 
tình  nguyện  tham  gia  nghiên  cứu.  Được  ghi 
nhận  tiền  căn  và  hiện  tại  không  có dấu  hiệu 
của bệnh mạch vành (không đau ngực, kết quả 
điện  tim không dấu hiệu  thiếu máu, men  tim 
trong  giới  hạn  bình  thường).  Nhóm  chứng 
được chọn  tương đồng với nhóm bệnh về các 
chỉ  số  giới,  tuổi,  tỷ  lệ  cao  huyết  áp  và mắc 
bệnh đái tháo đường.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
298
Thu thập dữ liệu và lấy mẫu 
Các  đối  tượng  nghiên  cứu  được  khai  thác 
tiền sử, bệnh sử (chú ý thời gian khởi bệnh), quá 
trình dùng thuốc và điều tra các yếu tố nguy cơ 
(hút thuốc, uống rượu, bệnh mãn tính) theo mẫu 
soạn sẵn. 
Mẫu máu  tĩnh mạch sau  ăn 12‐14 giờ được 
lấy vào ống có chống đông EDTA. Ly tâm 3000 
vòng/phút trong 15 phút và chiết huyết tương để 
thực  hiện  xét  nghiệm  định  lượng  các  lipid 
(cholesterol,  triglyceride, HDL‐cholesterol), điện 
di phân tách dưới nhóm LDL. Mẫu huyết thanh 
không  làm ngay  có  thể  trữ  2‐8oC  được  1  tuần. 
Cân  nặng,  đo  chiều  cao,  vòng  eo  (VE),  vòng 
hông (VH). 
BMI  {body  mass  index  =  cân  nặng 
(Kg)/(chiều  cao(m))2}  được  chia  thành  2 mức 
độ: bình thường < 25; quá cân và béo phì ≥ 25. 
Tính tỉ số VE/VH: theo số liệu ở người Châu Á, 
béo bụng khi nam > 0,9; nữ > 0,8. Tình  trạng 
hút thuốc: có hút là đang hút hoặc đã từng hút, 
còn không hút là chưa bao giờ hút thuốc. Uống 
rượu: nghiện rượu  là hầu như ngày nào cũng 
uống,  ngoài  ra  được  xem  là  không  nghiện 
rượu. Cao huyết áp là theo tiêu chuẩn JNC VII 
‐2003 (huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc 
huyết áp  tâm  trương  ≥ 90 mmHg) hoặc  đang 
dùng  thuốc hạ  áp  trong  2  tuần hoặc  có  chẩn 
đoán  của  Bác  Sỹ.  Đái  tháo  đường  được  xác 
định  theo  tiêu  chuẩn  WHO  ‐  1997  (đường 
huyết  khi  đói  ở  hai  lần  thử  khác  nhau  ≥  126 
mg/dL hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose ở 
giờ  thứ  hai  ≥  200  mg/dL)  hoặc  đang  dùng 
insulin hay thuốc hạ đường huyết dạng uống, 
có chẩn đoán của Bác Sỹ. 
Phương pháp xét nghiệm 
+  Xét  nghiệm  định  lượng  cholesterol, 
triglycerides,  high  density  lipoprotein‐
cholesterol (HDL‐c) tại khoa Sinh Hóa bệnh viện 
Chợ Rẫy  bằng  phương  pháp  enzym  trên máy 
Hitachi 917 với thuốc thử của hãng BioLabo, nội 
kiểm  2  mức  nồng  độ  (bình  thường  và  bất 
thường)  đi  kèm mỗi  đợt  chạy  và  có  tham  gia 
ngoại kiểm (chứng nhận tham gia kiểm chuẩn số 
159/KCXN‐GCN). Nồng  độ LDL‐cholesterol  áp 
dụng công thức của Friedewald (1972). 
+ Xét nghiệm điện di dưới nhóm LDL(11) thực 
hiện tại phòng xét nghiệm Hoa Việt, sử dụng hệ 
thống điện di (số 48‐9150), bộ thuốc thử (số 48‐
7002), chuẩn (liposure: số 48‐7060) và phần mềm 
vận hành, quản lý và tính toán kết quả của hãng 
Quantimetrix. Đây là hệ thống điện di trong môi 
trường thạch polyacrylamide có chênh lệch nồng 
độ  trong các ống  thủy  tinh. Quy  trình kỹ  thuật 
cho phép tách các thành phần LDL thành 7 dưới 
nhóm  theo  tính di  động  trong  điện  trường  ký 
hiệu  Rf  (LDL1:  Rf  0,27‐0,32;  LDL2:  0,32‐0,38; 
LDL3: 0,38‐0,45; LDL4: 0,45‐0,51; LDL5: 0,51‐0,56; 
LDL6: 0,56‐0,60; LDL7: 0,60‐0,64); LDL1 và LDL2 
là các LDL lớn, nhẹ (large, buoyant LDL), LDL3 
đến  LDL7  là  LDL  nhỏ,  đậm  đặc  (small,  dense 
LDL),  t ...  chứng). 
Không  có  liên  quan  giữa  kích  thước hạt  trung 
bình LDL với các yếu tố hút thuốc lá, quá cân và 
cao huyết áp ở cả hai nhóm đối tượng.  
Kết quả xử lý với phần mềm chuyên dụng 
phân  tích  kiểu  hình  LDL  với  ngưỡng  kích 
thước trung bình là 260 Ao, chia thành 2 nhóm 
hoặc A  (LDL  lớn, nhẹ) hoặc non‐A  (LDL nhỏ, 
đậm đặc). Tỷ lệ kiểu hình non‐A ở nhóm bệnh 
là  46,3%  cao  hơn  có  ý  nghĩa  so  với  nhóm 
chứng 40,3% (bảng 3). 
Hình 1: Phân phối các đối tượng theo kích thước LDL 
ở hai nhóm 
Bảng 2: Liên quan giữa kích thước trung bình LDL 
(Ao) với các yếu tố nguy cơ 
Yếu tố nguy cơ Nhóm bệnh x ± SD (n) 
Nhóm chứng 
x ± SD (n) 
Giới Nam 259,3 13,8 (204) 261,4 8,7 (45) 
Nữ 254,6 14,4 (105)(++) 262,4 7,4 (27) 
Hút 
thuốc lá 
Không 259,0 14,3(158) 260,4 8,1 (44) 
Có 256,2 12,8(99 ) 262,9 7,5(28) 
Quá cân/
BMI 
Không 258,1 13,9(256) 261,9 9,3 (54) 
Có 256,4 11,5(53) 261,1 7,1 (18) 
Béo bụng Không 262,1 14,4 (133) 263,1 7,8 (34) 
Có 255,7 6,2 (176)(++) 259,9 8,5 (38)(+)
Cao 
 huyết áp:
Không 260,1 13,9 (141) 262,9 8,9 (35) 
Có 257,7 13,1 (168) 260,2 7,1 (37) 
Đái tháo 
đường: 
Không 259,6 13,1(256) 263,4 7,4 (60) 
Có 254,7 15,9 (53) 258,7 8,7 (12) 
(+): Khác biệt với P/T test < 0,05; (++): P/T test < 0,01So 
sánh tỷ lệ kiểu hình: 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
300
Bảng 3: So sánh tỷ lệ kiểu hình LDL của bệnh 
nhân hội chứng mạch vành cấp với nhóm chứng  
 A Non-A 
Nhóm bệnh (n = 309) 166 (53,7%) 143 (46,3%) 
NHóm chứng (n=72) 45 (59,7%) 27 (40,3%) 
P/2 = 0,03 
So sánh kích thước trung bình của LDL nhận 
thấy nhóm bệnh hội  chứng mạch vành  cấp  có 
kích thức hạt LDL nhỏ hơn so với nhóm chứng 
và có liên quan đến mức độ bệnh trên lâm sàng 
qua phân tích đơn biến, tuy nhiên khác biệt này 
không còn ý nghĩa sau khi hiệu chỉnh với  tuổi, 
giới, cholesterol, triglyceride, HDL‐cholesterol và 
LDL‐cholesterol trong phân tích đa biến. 
Bảng 4: So sánh trung bình giữa các nhóm 
Các nhóm nghiên cứu x ± SD (Ao) P 
Nhóm bệnh (n =309) 257,5 14,3 
0,024(+) 
Nhóm chứng (n = 72) 261,7 8,2 
Nhóm chứng (n =72) 261,7 8,2 
0,039(++) 
ĐTNKOĐ (n= 52) 258,9 13,0 
NMCT-KSTC ( n= 42) 258,7 11,5 
NMCT-STC (n=215) 257,0 14,3 
 (+) kết quả của T test 2 bên với hai nhóm số liệu độc 
lập;(++) kết quả phép kiểm One‐way ANOVA 
* Tương quan kích thước trung bình LDL với các yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành 
Tương quan giữa kích thước trung bình LDL 
(Ao)  với  tuổi  (năm),  các  lipid  (mg/dL)  ở  nhóm 
bệnh và chứng  là  tương  tự nhau nên chúng  tôi 
gộp chung cả hai nhóm đối tượng (n = 351). Kích 
thước  trung  bình  LDL  có  tương  quan  nghịch 
mức độ trung bình với nồng độ triglyceride (r = ‐
0,39; p < 0,001), tương quan nghịch mức độ yếu 
với nồng độ cholesterol toàn phần (r = ‐0,29; p < 
0,001) và thuận mức độ yếu với nồng độ HDL‐
cholesterol huyết tương (r = 0,26; p < 0,001). Kích 
thước  trung  bình  LDL  không  tương  quan  với 
nồng độ LDL‐cholesterol huyết tương và tuổi (P 
> 0,05) (hình 2). 
Hình 2: Tương quan của kích thước trung bình LDL với nồng độ triglyceride, cholesterol và HDL‐cholesterol 
huyết tương 
BÀN LUẬN 
 Bệnh mạch vành  là bệnh hay gặp  ở người 
lớn tuổi, nam gần gấp đôi nữ và hay đi kèm đái 
tháo đường và cao huyết áp. Các yếu tố này có 
liên quan đến rối loạn lipid, lipoprotein (7,10,12), do 
đó để tránh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố này khi 
khảo sát các  thông số dưới nhóm Lp chúng  tôi 
chọn  nhóm  chứng  có  các  chỉ  số  này  tương 
đương với nhóm bệnh. 
Trung bình kích thước hạt LDL có phân phối 
chuẩn ở cả hai nhóm (hình 1), điều này phù hợp 
với các nghiên cứu trước đây(6). Mối liên hệ giữa 
kích  thước  trung  bình  và  các  yếu  tố  nguy  cơ 
không phải lipid đã được thống kê trong bảng 2. 
Tuổi là một yếu tố có liên quan đến chuyển hóa 
lipid, Lp,  tuổi càng cao khả năng rối  loạn  lipid, 
Lp càng nhiều(7,10,13),  tuy nhiên kết quả khảo sát 
tương quan  thấy không có  liên hệ, điều này có 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
301
thể là do các đối tượng của chúng tôi hầu hết là 
lớn tuổi (trung bình 62   12) ở cả hai nhóm và có 
tỷ lệ khá cao của các bệnh lý liên quan như cao 
huyết áp, đái tháo đường . Tác giả MC Namara(7) 
nhận thấy nam có kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc 
nhiều  hơn  nữ  ở  cùng  nhóm  tuổi,  trong  khi 
chúng tôi thấy không có khác biệt ở nhóm chứng 
và nữ có kích  thước hạt nhỏ hơn nam  ở nhóm 
bệnh hội chứng mạch vành cấp. Khác biệt này có 
thể  giải  thích do  khác nhau  về  đối  tượng  (đối 
tượng  trong  nghiên  cứu Mc Namara  là  người 
bình  thường  từ  27  đến 75  tuổi  trung bình 49,6 
tuổi  ở  cả  2  giới  và  là  người  bình  thường)  cần 
thêm  nghiên  cứu  trên  cùng  đối  tượng  để  kết 
luận vấn đề này. Béo bụng (tỷ số VE/VH > 90 ở 
nam và > 80 ở nữ) có liên hệ với kích thước hạt 
LDL ở cả hai nhóm, có sự giảm kích  thước hạt 
LDL  ở  người  béo  bụng  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi. Người béo bụng được cho là kết quả 
của  sự  tích  tụ mỡ ở vùng hông và  là chỉ số có 
liên  quan  đến  rối  loạn  lipid,  lipoprotein.  Bệnh 
đái  tháo  đường  cũng  liên  quan  đến  rối  loạn 
lipid, Lp và là yếu tố nguy cơ mạnh của bệnh lý 
mạch vành, chúng  tôi  thấy hạt LDL có khuynh 
hướng  nhỏ  hơn  ở  đối  tượng  bệnh  đái  tháo 
đường  so  với  không  mắc  bệnh  này  ở  cả  hai 
nhóm tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê (p = 
0,056 ở nhóm bệnh và 0,085 ở nhóm chứng).  
Trong nghiên cứu này bệnh nhân bệnh mạch 
vành tăng tỷ lệ kiểu hình LDL có tính xơ vữa cao 
(non‐A) so với nhóm người không có bệnh mạch 
vành, điều này phù hợp với hầu hết nghiên cứu 
đoàn hệ và cắt ngang trước đây. Các nghiên cứu 
này xác định nhóm kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc 
có tính gây xơ vữa mạch vành cao gấp 2‐3 lần so 
với nhóm còn lại(1,5,6,9). Cơ chế bệnh sinh cũng cho 
thấy LDL nhỏ, đậm đặc có sự giảm ái lực với thụ 
thể LDL,  tăng khả năng xâm nhập  thành mạch 
máu cao hơn và dễ bị oxy hóa hơn so với kiểu 
hình lớn, nhẹ (2). Tỷ lệ LDL có kiểu hình non‐A ở 
đối  tượng  hội  chứng mạch  vành  cấp  là  46,3% 
thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Yoshihisa 
Ban, có cùng phương pháp điện di và  trên 314 
bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp(15), có tỷ lệ 
kiểu hình LDL‐B là 54%, khác biệt này là do khác 
nhau  về  đối  tượng  và  chuẩn  áp  dụng  để  xác 
định  kiểu  hình  LDL,  Tương  ứng  kích  thước 
trung  bình  của  hạt  LDL  của  nghiên  cứu 
Yoshihisa Ban nhỏ hơn  so  với nghiên  cứu  của 
chúng  tôi  (255Ao  so  với  257,5  của  nghiên  cứu 
này, p = 0,01). Tác giả Romina KG(4) nghiên cứu 
cùng phương pháp điện di với nghiên cứu này 
trên  86  đối  tượng  có  hẹp  động mạch  vành(có 
triệu  chứng)  và  30  người  khỏe mạnh  (chứng) 
thấy kích thước hạt LDL lần lượt là 253,9   3,8 và 
259,5   4 nhỏ hơn  trong nghiên cứu của chúng 
tôi ở cả hai nhóm bệnh và chứng, p < 0,05). Tác 
giả H Campos(3) và các cộng sự nghiên cứu trên 
275 bệnh nhân nam bệnh mạch vành và 822 nam 
giới  rút  ra  từ nghiên  cứu Framingham,  tác giả 
nhận  thấy  tỷ  lệ  kiểu  hình  LDL  nhỏ,  đậm  đặc 
(bao  gồm  nhóm  LDL  nhỏ  và  rất  nhỏ  trong 
nghiên cứu của H Campos) ở nhóm bệnh mạch 
vành có dùng  thuốc chẹn   (n =179)  là 68% và 
nhóm bệnh không dùng thuốc chẹn  là 48% cao 
hơn hẳn so với nhóm chứng là 30%. Nghiên cứu 
của  chúng  tôi  thấy  có  tỷ  lệ LDL nhỏ,  đậm  đặc 
tương đương với nghiên cứu của Campos H  ở 
bệnh nhân không dùng thuốc chẹn  (46,3% của 
chúng  tôi so với 48% của H Campos, p > 0,05), 
tuy nhiên nhóm chứng của chúng tôi lại có tỷ lệ 
LDL nhỏ, đậm đặc cao hơn (40,3% của chúng tôi 
so với 30% của H Campos, p < 0,01). Khác biệt về 
tỷ  lệ  nhóm  chứng  có  thể một  phần  là do  tuổi 
nhóm chứng của H Campos  là 49   6 tuổi thấp 
hơn với nhóm chứng của nghiên cứu này 62   
12,  bên  cạnh  đó  việc  loại  bỏ  các  đối  tượng  có 
triglyceride > 500 mg/dL và chọn tự do về tỷ  lệ 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
302
đái tháo đường và cao huyết áp của nghiên cứu 
này cũng góp phần tạo nên khác biệt trên (chúng 
tôi chọn nhóm chứng có tỷ lệ cao huyết áp và đái 
tháo đường tương đương nhóm bệnh). 
Các nghiên cứu trước đây đều nhận thấy có 
tương quan giữa kích thước trung bình LDL với 
nồng  độ  triglyceride  và HDL‐cholesterol  trong 
máu(1,3,6,2).  Tương  quan  giữa  kích  thước  trung 
bình LDL với nồng độ triglyceride trong máu là 
tương quan nghịch  ở mức  độ  trung bình hoặc 
yếu, người  ta cho  rằng  thành phần  triglyceride 
trong các hạt VLDL tiền chất của LDL là yếu tố 
quyết định kích thước hạt LDL(8). Hạt VLDL giàu 
triglyceride  là cơ chất của men cholesterol ester 
transfer  protein:  CEPT,  làm  trao  đổi  nhận 
cholesterol  este  từ  LDL  và  chuyển  triglyceride 
đến LDL. Hạt LDL giàu triglyceride lại chịu tác 
dụng  của  men  lipoprotein  lipase  (LPL)  và 
hepatic lipase (HP) phủy phân triglyceride trong 
LDL  làm kích thước hạt giảm sinh ra LDL nhỏ, 
đậm đặc: Nghiên cứu của tác giả Lamarche(6) và 
cộng sự thấy r = ‐0,46; (n = 103, p < 0,001), tác giả 
Yoshihisa(2) chỉ ghi nhận một tương quan nghịch 
có ý nghĩa chỉ ở mức độ yếu r = ‐0,164 (n = 307; p 
< 0,05), nghiên cứu của chúng tôi gộp chung cả 
nhóm bệnh và  chứng  là  r =  ‐0,39  (n = 351, p < 
0,001). Tương quan giữa kích  thước  trung bình 
LDL với nồng độ HDL‐cholesterol trong máu là 
tương quan thuận và hầu hết  là ở mức độ yếu, 
tác  giả  Lamarche  và  cộng  sự  có  r  =  0,39,  H. 
Campos(3) trong các nhóm như trên lần lượt là r = 
‐0,41; ‐ 0,41 và ‐ 0,57 và nghiên cứu của Yoshihisa 
r = 0,255, của chúng tôi là r = 0,26 tất cả đều có ý 
nghĩa thống kê. Ngoài ra nghiên cứu của chúng 
tôi còn ghi nhận một tương quan nghịch mức độ 
yếu của kích thước hạt LDL với cholesterol toàn 
phần  (r  =  ‐0,29;  p  <  0,001),  trong  khi  đó  các 
nghiên  cứu  nêu  trên  đều  ghi  nhận  không  có 
tương  quan. Nhìn  chung  có  hai  cách  để  biểu 
diễn  kích  thước  hạt  LDL  là  tính  theo  điểm  số 
(Score) hoặc tính theo kích thước (Size), hai cách 
tính này có giá trị như nhau chỉ khác nhau về hệ 
số tính toán(3). Hệ số tương quan của các nghiên 
cứu  khác  biệt  nhau  khá  lớn,  có  thể  là  do  đối 
tượng nghiên cứu không giống nhau về chủng 
tộc (chúng tôi nghiên cứu trên người Việt Nam, 
nghiên  cứu  của  Lamarche:  người  Canada, 
Yoshihisa : người Nhật,), giới tính (H Campos 
chỉ  nghiên  cứu  trên  nam),  bệnh  lý  đi  kèm 
(Yoshihisa có tỷ lệ bệnh đái tháo đường 28%, của 
chúng tôi là 16,7%), tuổi, độ nặng của bệnh, 
KẾT LUẬN 
Kích  thước  trung  bình  LDL  có  phân  phối 
chuẩn  và  liên  quan  đến  tuổi,  tình  trạng  béo 
bụng, không khác biệt theo tình trạng hút thuốc, 
quá cân và cao huyết áp. Bệnh nhân hội chứng 
mạch  vành  cấp  người Việt Nam  có  tỷ  lệ  kiểu 
hình LDL nhỏ, đậm đặc: 46,3% cao hơn và kích 
thước trung bình LDL 257,5   14,3Ao nhỏ hơn so 
với người không  có hội  chứng mạch vành  cấp 
với tỷ lệ và kích thước lần lượt là 40,3% và 261,7 
  8,2 Ao. Kích thước trung bình LDL: Liên quan 
đến mức độ nặng của bệnh trên lâm sàng nhưng 
không có ý nghĩa khi hiệu chỉnh với các yếu tố 
nguy cơ khác, có tương quan nghịch mức độ vừa 
với nồng độ triglyceride huyết tương (r = ‐0,39), 
mức  độ  yếu  với  cholesterol  toàn  phần  huyết 
tương  (r =  ‐0,29) và  tương quan  thuận mức  độ 
yếu  với  nồng  độ  HDL‐cholesterol  (r  =  0,26), 
không tương quan với nồng độ LDL‐cholesterol 
và tuổi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Austin MA et al  (1988). “LDL Subclass Patterns and Risk of 
Myocardial  Infarction”.  Journal  of  the  American  Medical 
Association; 260: pp1917–1921. 
2. Ban Y, Koba  S, Tsunoda  F  et  al  (2006).  “ Predominance  of 
small dense  low‐density  lipoproteins  and  abnormal glucose 
regulation in patients with acute coronary syndrome”. Circ J; 
70: pp 393‐401. 
3. Campos H, Genest  J, Blijlevens E, McNamara  JR,  Jenner  JL, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 
303
Ordovas  JM, Wilson  PW,  Schaefer  EJ  (1992).  “Low  density 
lipoprotein  particle  size  and  coronary  artery  disease”. 
Arteriosclerosis; 12: pp187–195 
4. Ghassab RK, Gohari  LH,  Firoozray M,  Yegane MN  (2010). 
“Determination of Low Density Lipoprotein Particle Size by 
Polyacrylamide Gradient Gel Electrophoresis in Patients with 
Coronary Artery Stenosis”. LabMedicine; 41, pp164‐166. 
5. Koba S, Hirano T, Yoshino G, et al (2002). “Remarkably high 
prevalence of small dense low‐density lipoprotein in Japanese 
men  with  coronary  artery  disease”.  Atherosclerosis;160:  pp 
249–256. 
6. Lamarche B, Tchernof A, Moorjani S, Cantin B, Dagenais GR, 
Lupien  PJ,  Després  JP  (1997).  “Small,  dense  low‐density 
lipoprotein particles as a predictor of the risk of ischemic heart 
disease  in  men.  Prospective  results  from  the  Québec 
Cardiovascular Study”. Circulation; 95(1): pp 69‐75. 
7. McNamara  JR, Campos H, Ordovas  JM, Peterson  J, Wilson 
PW, Schaefer EJ (1987). ‟Effect of gender, age, and lipid status 
on  low  density  lipoprotein  subfraction  distribution. Results 
from the Framingham Offspring Study”. Arteriosclerosis; 7(5): 
pp 483‐90  
8. McNamara JR, Jenner JL, Li Z, Wilson PWF, Schefer EJ (1992). 
“Change  in  LDL  particle  size  is  associated with  change  in 
plasma  triglyceride  concentrations”.  Arterioscler  Thromb;  12: 
pp 1284–1290 
9. Nozue T, Michishita  I,  Ishibashi Y, et al  (2007).“Small dense 
low  density  lipoprotein  cholesterol  is  a  useful  marker  of 
metabolic syndrome in patients with coronary artery disease”. 
J Athetoscler Thromb;14: pp 202–207. 
10. Phạm Thị Mai (2008). ‟Chuyển hóa lipid”. Hóa sinh y học; Đại 
Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh; chương 14, trang 335‐
340. 
11. Tài  liệu  kỹ  thuật  điện  di  của  hãng  Quantimex  (2005). 
“LipoprintSystem, LDL subfractions kit”. Ref 48‐7002. 
12. Trần Thành Vinh, Lê Ngọc Hùng, Phan Thị Danh, Phạm Thị 
Mai  (2009).  ‟Điện di  lipoprotein huyết  tương  trên  cellulose 
acetate ở bệnh nhân đái tháo đường típ2”. Tạp chí Y Học Thành 
Phố Hồ Chí Minh; tập 13 số 4, trang 211‐218. 
13. Trương Quang Bình  (2001).  “Nghiên  cứu  các  rối  loạn  lipid 
máu, lipoprotein ở bệnh nhân bệnh động mạch vành”. Luận 
văn Tiến Sỹ Y Học; Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh 
trang 109‐110. 
14. Trương Quang Bình (2009). ‟Bệnh động mạch vành”. Bệnh học 
nội  khoa;  Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, bài  7, 
trang 62‐75.  
Ngày nhận bài báo:       21/05/2013 
Ngày phản biện đánh giá bài báo:   27/05/2013 
Ngày bài báo được đăng:     15/12/2013 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_kieu_hinh_lipoprotein_ty_trong_thap_bang_ky_thuat.pdf