Sản phẩm giao duyên giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX

Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đợc coi là mốc quan trọng

đánh dấu sự xuất hiện và phát triển của báo chí và văn học Việt Nam hiện đại.

Sự tin dùng chữ quốc ngữ của các trí thức Việt Nam đã khiến sản phẩm tinh

thần của họ là báo chí và văn học phát triển và cũng chính từ sự phát triển của

nền báo chí, văn học mới đã giúp vốn từ vựng, phong cách ngữ pháp, văn phong

tiếng Việt ngày càng phong phú, sinh động hơn. Tầng lớp trí thức cuối thế kỷ

XIX nh Trơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của. đã sử dụng chữ quốc ngữ trong

các sáng tác báo chí, văn học. Trơng Vĩnh Ký là ngời chủ trơng đa chữ

quốc ngữ lên mặt báo với tờ Gia Định báo (số đầu tiên xuất bản ngày

15.4.1865). Tiếp sức cho các ông là những cây bút nh Phan Khôi, Phạm

Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu. Nhng phải đến những năm 20

của thế kỷ XX, với sự thâm nhập mạnh mẽ của báo chí phơng Tây vào Việt

Nam, với công nghệ in ấn hiện đại thì chữ quốc ngữ mới đợc dùng nhiều trong

sáng tác. Sự xuất hiện của công nghệ in ấn cùng với việc chữ quốc ngữ đợc

truyền bá rộng rãi khiến báo chí phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, bên

cạnh việc đăng tải các bản tin thờng nhật, báo chí còn đóng vai trò “bà đỡ”

cho văn học phát triển. Hầu hết các tác phẩm văn học nh tiểu thuyết, thơ,

truyện ngắn, tản văn. đều đợc đăng trên các tờ Ngày nay, Phong hoá, Đông

Dơng tạp chí, Hà Nội báo.

 

pdf 6 trang dienloan 4440
Bạn đang xem tài liệu "Sản phẩm giao duyên giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sản phẩm giao duyên giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX

Sản phẩm giao duyên giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX
sản phẩm giao duyên 
giữa báo chí và văn học đầu thế kỷ XX 
 Vũ Thanh Minh* 
Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX được coi là mốc quan trọng 
đánh dấu sự xuất hiện và phát triển của báo chí và văn học Việt Nam hiện đại. 
Sự tin dùng chữ quốc ngữ của các trí thức Việt Nam đã khiến sản phẩm tinh 
thần của họ là báo chí và văn học phát triển và cũng chính từ sự phát triển của 
nền báo chí, văn học mới đã giúp vốn từ vựng, phong cách ngữ pháp, văn phong 
tiếng Việt ngày càng phong phú, sinh động hơn. Tầng lớp trí thức cuối thế kỷ 
XIX như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... đã sử dụng chữ quốc ngữ trong 
các sáng tác báo chí, văn học. Trương Vĩnh Ký là người chủ trương đưa chữ 
quốc ngữ lên mặt báo với tờ Gia Định báo (số đầu tiên xuất bản ngày 
15.4.1865). Tiếp sức cho các ông là những cây bút như Phan Khôi, Phạm 
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tích Chu... Nhưng phải đến những năm 20 
của thế kỷ XX, với sự thâm nhập mạnh mẽ của báo chí phương Tây vào Việt 
Nam, với công nghệ in ấn hiện đại thì chữ quốc ngữ mới được dùng nhiều trong 
sáng tác. Sự xuất hiện của công nghệ in ấn cùng với việc chữ quốc ngữ được 
truyền bá rộng rãi khiến báo chí phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, bên 
cạnh việc đăng tải các bản tin thường nhật, báo chí còn đóng vai trò “bà đỡ” 
cho văn học phát triển. Hầu hết các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, thơ, 
truyện ngắn, tản văn... đều được đăng trên các tờ Ngày nay, Phong hoá, Đông 
Dương tạp chí, Hà Nội báo... Và sau này, khi các nhà xuất bản ra đời, các sáng 
tác văn học được tập hợp lại in thành sách. Cùng với công nghệ in ấn là hoạt 
* TS. Học viện Chính trị – Hành chính khu vực I. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2009 
114
động của mạng lưới bưu điện, hiệu sách, toà soạn báo, nhà xuất bản... Tất cả là 
những tác nhân quan trọng làm diễn đàn báo chí, văn học từ những năm 1932 
trở về sau phát triển sôi động. Thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), dân chủ 
hoá đời sống báo chí, văn học được thực hiện. Báo chí tiến bộ cùng với báo chí 
cách mạng phát triển rầm rộ khắp Bắc, Trung, Nam (năm 1939 có 128 tờ nhật 
báo, 170 kỷ yếu và tạp chí). 
Báo chí phát triển trở thành sản phẩm bày bán ở các hiệu sách báo làm xuất 
hiện một lớp người chuyên sống bằng nghề viết - nhà văn, nhà báo. Tầng lớp 
này ngày càng đông đảo. Họ là những người học tiếng Pháp, biết chữ quốc ngữ, 
hoặc từ bỏ “bút lông” tung hoành “bút sắt”. Họ sáng tác bằng tất cả tâm lực và 
trí lực trên mọi lĩnh vực báo chí, văn học, dịch thuật, khảo cứu... Họ vừa là nhà 
văn, vừa là nhà báo. Chính mối quan hệ đặc biệt giữa nhà văn, nhà báo; giữa 
văn học và báo chí ngay từ khi ra đời đã tạo nên tình trạng giao thoa, thâm nhập 
mạnh mẽ trên phương diện sáng tạo, nhất là trên lĩnh vực ngôn ngữ và các thủ 
pháp nghệ thuật giữa “văn” và “báo”. Sáng tác của các nhà văn, nhà báo thời ấy 
như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Trọng Thuật, Thiếu 
Sơn, Nguyễn Đình Lạp... là minh chứng cụ thể cho sự giao nhập trên. Xuất hiện 
trong hoàn cảnh như thế, với tư cách của một thể báo chí đặc sắc, phóng sự 
1932-1945 là nơi thể hiện tập trung nhất, bản chất nhất sự giao duyên giữa văn 
học và báo chí. 
Giai đoạn 1932 - 1945, phóng sự phát triển mạnh với nhiều nội dung bởi các 
yếu tố: phong trào cách mạng phát triển mạnh, sự dồn nén lâu ngày của các 
mâu thuẫn trong xã hội thực dân nửa phong kiến, sự tha hoá về lối sống, sự 
xuống cấp của đạo đức xã hội, sự giao lưu văn hoá, sự phát triển của chữ quốc 
ngữ... Tất cả đều tác động vào thế giới quan nhà văn - nhà báo. Với đặc trưng 
phản ánh hiện thực dưới dạng một bức tranh toàn cảnh, phóng sự được phép 
mở rộng tầm quan sát đời sống một cách sinh động, nhưng trong khuôn khổ 
người thực, việc thực, không thể tuỳ tiện xây dựng nhân vật với những chi tiết 
hư cấu như văn học. Vì vậy để có những tác phẩm hay, thuyết phục người đọc, 
người viết phóng sự không chỉ đưa ra những con số điều tra trần trụi khô cứng 
mà phải phản ánh hiện thực qua cách viết giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Kinh 
nghiệm, quan điểm của chủ thể sáng tạo giữ vai trò tạo ra những tác phẩm có 
giá trị. Sự việc, sự kiện trong phóng sự được diễn tả từ quá trình phát sinh, phát 
triển, đến việc đưa ra những giải pháp cho những vấn đề nổi trội cần giải quyết. 
Vì vậy trong phóng sự, sự kiện được đề cập một cách kịp thời, đa diện (yếu tố 
của ghi nhanh) nhưng nhân vật lại có thật với những tính cách, hình mẫu, 
nguyên bản (yếu tố của ký chân dung). 
Là một trong những thể loại hạt nhân của báo chí, phóng sự 1932-1945 
mang đầy đủ đặc điểm của báo chí. Nó phản ánh hiện thực thông qua những sự 
Sản phẩm giao duyên giữa 
115
kiện nổi bật có tính chất thời sự; tác động vào nhận thức lý tính của công chúng 
và dùng ngôn từ làm phương thức phản ánh. Ngôn từ được dùng theo nghĩa 
“đen”, lột tả bản chất của sự kiện. Nhưng trên thực tế, ngôn từ ở một số phóng 
sự ít nhiều mang yếu tố hàm ẩn, đa nghĩa. Với phương thức chiếm lĩnh hiện 
thực, diễn tả hiện thực một cách vừa chi tiết, sinh động vừa khái quát (đề cập 
đến những vấn đề lớn mang tính chất xã hội học), vừa có chỗ đứng cho vai trò 
người dẫn truyện (sự xuất hiện trực tiếp của tác giả), phóng sự đã đem luồng 
sinh khí mới cho thông tin thời sự khô khan bằng cách viết linh hoạt, việc sử 
dụng ngôn ngữ sinh động giàu hình ảnh. Chính với phương thức chiếm lĩnh 
hiện thực này, phóng sự 1932-1945 đã phá vỡ khuôn khổ của thể loại báo chí. 
Nếu so với các thể loại báo chí đương thời lúc đó như tin, các dạng bút ký 
chính luận, bình luận về thời cuộc, các bài viết chân dung về các ông thống 
sứ... thì phóng sự 1932-1945 có dung lượng lớn hơn hẳn. Một bài báo mô tả về 
một hội chợ; những mẩu tin, thông tin về các mặt hàng được thiếu nữ tân thời 
ưa chuộng trong các báo Ngày nay, Phong hoá đều có dung lượng ngắn vài 
chục từ hoặc một cột báo. Nhưng phóng sự thời kỳ này thường dài đến nhiều 
nghìn từ (Lục xì của Vũ Trọng Phụng ước tới 100 trang in; Ngoại ô của Nguyễn 
Đình Lạp dày dặn trên 140 trang...). Cùng với đó, ngôn ngữ trong phóng sự 
1932-1945 tuy là ngôn ngữ của đời thường nhưng được sử dụng trau chuốt với 
giọng điệu mềm mại, sinh động, câu văn dài mượt mà khác hẳn với câu văn 
ngắn gọn, cách dùng từ gọi đúng tên sự kiện như Tin và các thể loại báo chí 
khác. Điều này thể hiện rõ trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, 
Nguyễn Đình Lạp và nhiều phóng sự miêu tả phong cảnh, tập quán phong tục 
đất nước.... Về mặt kết cấu tác phẩm, phóng sự khác với các thể loại báo chí 
trước hết ở cách bố cục tác phẩm. Tác phẩm có thể bố cục 3 phần rõ ràng như 
các thể loại báo chí khác, nhưng vấn đề phóng sự đưa đến ở mức khái quát cao 
hơn, có tính chất xã hội cao hơn và có thể đằng sau nó là một tư tưởng nào đó. 
Yếu tố cảm xúc chủ quan của tác giả xuất hiện nhiều trong phóng sự 1932-
1945. Sự kiện, hiện thực xót xa của xã hội không đi vào phóng sự một cách thờ 
ơ, lạnh nhạt đúng với hình thức bên ngoài của nó mà ẩn bên trong đó là yếu tố 
cảm xúc chủ quan của tác giả chi phối kết cục tác phẩm. Nhãn quan tình cảm, 
nhận thức thẩm mỹ của tác giả chi phối đến giá trị tác phẩm phóng sự; chi phối 
mục đích viết phóng sự, viết cho ai? viết để làm gì...? Đôi lúc yếu tố cảm xúc 
chủ quan của tác giả lấn lướt yếu tố khách quan đã sản sinh ra nhiều đoạn 
phóng sự hay đầy triết lý nhân sinh của chính tác giả “ấy thế rồi tôi đâm ra 
khinh tất cả loài người, vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta lại 
trông rõ được thực trạng cuộc đời. Thật vậy, không bao nhiêu sách vở của loài 
người, cốt để dạy cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả... Văn chương 
là một sự, sự đời là một sự khác. Rồi tôi cảm thấy muốn làm một nhà xã hội học 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2009 
116
một nhà tâm lý... và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tính tình của loài người 
hơn là một nhà văn sĩ tả chân” [Phan Trọng Thưởng... (sưu tầm biên soạn), 
Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr.766], những 
trang viết mượt mà, bay bổng, thấm đẫm chất văn chương: “Những ánh nắng 
vàng yếu ớt mới đây còn rung rinh rỡn đùa trên những vòm cây nội cỏ đã tắt 
dần để nhường chỗ cho bóng tối phủ dần cảnh vật. Thành phố đã lên đèn... Đà 
Lạt thật là một nơi thần tiên” [Phan Trọng Thưởng... (sưu tầm biên soạn), 
Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, tập 3, Nxb Văn học, H. 2000, tr. 1076]. 
Chính yếu tố cảm xúc đã khiến Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp... xây dựng 
được những hình tượng nhân vật điển hình cho tác phẩm. Chân dung ông ấm B. 
trong Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng đã trở thành hình tượng nghệ thuật 
với những tính cách điển hình tốt - xấu. Theo chân gia đình bác Vuông trong 
Ngoại ô, Ngõ hẻm, tác giả Nguyễn Đình Lạp buồn vui cùng số phận mỗi thành 
viên trong gia đình, để cả tác phẩm là sự ngậm ngùi, xót xa cho thân phận con 
ong, cái kiến, nhọc nhằn của dân nghèo ngoại ô. 
Bám sát những đề tài đa dạng và rất đời thường, sự kiện trong các tác phẩm 
phóng sự của Vũ Trọng Phụng có tính chất điển hình, tiêu biểu cho nạn cờ bạc, 
tệ đĩ điếm, một nghề mà chưa ở đâu công nhận là “nghề lấy Tây”, rồi chuyện 
người nông dân bỏ ruộng vườn, làng mạc kéo nhau ra thành phố để “tìm đến 
một cái chết khác”... Tính thời sự của hiện thực tràn vào trong trang sách của 
Vũ Trọng Phụng thật sống động. Cả xã hội thành thị hiện lên nhốn nháo trong 
tác phẩm với những con người bằng xương bằng thịt và bước ra khỏi tác phẩm 
để rồi trở thành điển hình cho một lớp người tồn tại thực ngoài xã hội. Tính 
định hướng trực tiếp của tác giả trong các thiên phóng sự Cạm bẫy người, Một 
huyện ăn tết, Kỹ nghệ lấy Tây (cảnh tỉnh xã hội, đánh thức những thiên lương 
còn sót lại...), qua những trang viết đầy cảm xúc, qua sự phân trần, bộc bạch 
của “cái tôi” tác giả cùng những hình ảnh nhân vật đạt đến trình độ hình tượng 
đã day dứt độc giả có lương tâm, có trách nhiệm. Đây là kiểu kết thúc rất văn 
chương của tác phẩm phóng sự. Bên cạnh đó, đời sống riêng tư, lẽ sống của 
những con người, những nhân vật trong phóng sự mà Vũ Trọng Phụng muốn 
dùng để “tô điểm” cho sự kiện chính trong tác phẩm cũng đã đưa phóng sự của 
ông bước sang lĩnh vực phát triển cao của nghệ thuật văn chương - tiểu thuyết, 
với các phóng sự tiểu thuyết nổi tiếng như Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, 
Một huyện ăn tết. 
Cùng với Vũ Trọng Phụng là các cây bút “sừng sỏ” trong làng báo như Vũ 
Bằng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam... Sản nghiệp văn chương, báo chí của họ giai 
đoạn này đều có hiện tượng “văn báo bất phân”. Trong số những nhà văn, nhà 
báo viết phóng sự, phóng sự của Ngô Tất Tố cũng là những bằng chứng sinh 
động cho kết quả của sự giao duyên giữa văn học và báo chí. Năm 1935 Ngô 
Sản phẩm giao duyên giữa 
117
Tất Tố viết hai truyện lịch sử là Lịch sử Đề Thám, Những trận đổ máu thì cũng 
cuối năm đó ông cho ra đời phóng sự Dao cầu thuyền tán. Trong quá trình sáng 
tác, khi thì ông làm việc của nhà biên khảo, khảo cứu, khi viết tiểu thuyết, 
truyện lịch sử, chen lẫn viết phóng sự. Vì thế, trong sáng tác của ông, từ tạp 
văn, tiểu phẩm, phóng sự đến tiểu thuyết... vừa có giá trị báo chí, vừa có giá trị 
văn học. Đó là những sự việc, những con người dưới bút pháp nghệ thuật phong 
phú, linh hoạt, châm biếm sắc sảo đã trở nên điển hình hoá. Các phóng sự của 
ông đề cập đến các vấn đề điển hình của xã hội thực dân nửa phong kiến. 
Ranh giới mỏng manh giữa báo chí và văn học, giữa phóng sự với tiểu thuyết 
đã tạo sức hấp dẫn mãnh liệt cho phóng sự Việt Nam 1932-1945. Đến nay, 
những tác phẩm đó vẫn là những cuốn tư liệu nóng hổi về sự biến chuyển của 
xã hội Việt Nam trong buổi giao thời trên các lĩnh vực chính trị - văn hoá - xã 
hội. 
Tính chất xâm nhập, đan xen vào nhau của báo chí và văn học trong một tác 
phẩm phóng sự là sản phẩm của sự giao duyên giữa văn học và báo chí giai 
đoạn 1932-1945, là kết quả tất nhiên của quy luật xuất hiện và phát triển song 
tồn nhưng còn non trẻ của báo chí và văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ 
XX. Sự xâm nhập, giao thoa không chỉ có riêng ở phóng sự mà xảy ra trên tất 
cả các thể tài văn học và báo chí lúc bấy giờ. Đương thời, cả nhà văn, nhà báo, 
độc giả đều không có ý niệm về những đặc trưng của từng thể loại, chưa thấy 
được sự giống và khác nhau của hai hình thái ý thức- xã hội đặc thù này và đôi 
khi chủ quan của họ cũng chưa cần tới sự phân biệt này. Bên cạnh đó, ngành lí 
luận phê bình lúc đó lại quá non trẻ, chưa phân định được rạch ròi các thể loại. 
Trên hầu hết các tờ báo Ngày nay, Phong hoá, Phụ nữ tân văn, Đông Dương 
tạp chí, Nam phong tạp chí... thì tỷ lệ bài về thể tài văn học lại nhiều hơn bài 
viết về chính trị - xã hội. Giữa các tác phẩm văn chương và tác phẩm báo chí 
chưa có sự phân định rạch ròi nên ở những thể loại ráp ranh giữa văn và báo của 
ký tự sự thì sự mập mờ ở những tiểu thể loại như phóng sự, ký sự, hồi ký... là 
điều không tránh khỏi. Sự không phân định rạch ròi này thể hiện ở phương diện 
đề tài, phương diện thể loại và cả trên phương diện ngôn ngữ. “Ông vua phóng 
sự đất Bắc” lấy đề tài về mặt trái của xã hội đô thị đương thời cho tác phẩm 
phóng sự thì đồng thời cũng lấy đó làm tài liệu sống cho các tiểu thuyết Giông 
tố, Số đỏ, Vỡ đê... nên chất văn trong tiểu thuyết cũng ùa sang phóng sự. Trong 
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, người ta cũng nhận ra các con số điều tra, sự 
kiện, năm tháng cụ thể, những “cứ liệu” biết nói của phóng sự. Do vậy, quá nửa 
số phóng sự của Vũ Trọng Phụng được xếp vào diện phóng sự tiểu thuyết. Ngô 
Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp... cũng vậy. Chất liệu về đời sống thôn quê khổ cực 
cùng với những hủ tục lạc hậu ùa vào tiểu thuyết Tắt đèn, cũng vào cả phóng sự 
Tập án cái đình, Việc làng... Về phương diện ngôn ngữ, trong các tác phẩm 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2009 
118
phóng sự cũng là sự nhập nhằng giữa ngôn ngữ của báo chí và ngôn ngữ văn 
học - thứ ngôn ngữ giàu tính hình tượng, giàu khả năng gợi cảm, giàu tính biểu 
cảm và hàm súc, cô đọng với thứ ngôn ngữ mang tính định lượng, chính xác, cụ 
thể, rõ ràng và khuôn mẫu... Chất báo trong phóng sự 1932-1945 ẩn vào hình 
thức văn chương đã thu hút được khá nhiều độc giả, kể cả những người ham 
thích lối viết ly kỳ, mượt mà, và những người thích các vấn đề thời sự, những 
con số thống kê nóng bỏng. 

File đính kèm:

  • pdfsan_pham_giao_duyen_giua_bao_chi_va_van_hoc_dau_the_ky_xx.pdf