Tóm tắt Luận án Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất thường van mũi trong qua nội soi

Trong khoảng 10 năm gần đây, y văn thế giới đã công bố các

nghiên cứu về van mũi trong qua nội soi bao gồm: hình dạng cấu

trúc, trị số góc van mũi trong và can thiệp phẫu thuật.

Các nghiên cứu về hình dạng và chỉ số góc van mũi trong đã

được các tác giả như Miman, Ichimura, Suh đã đề cập đến. Bên cạnh

đó, đối với phẫu thuật can thiệp các bất thường van mũi trong qua

nội soi điều trị nghẹt mũi là các nghiên cứu của Clark và Bassiouny.

Hiện nay, ở Việt Nam các nghiên cứu liên quan về vấn đề

van mũi trong rất ít, Nguyễn Thị Thanh Thúy sử dụng các dạng

mảnh ghép chỉnh hình van mũi bằng đường mổ hở.

Các khía cạnh như: hình thái cấu trúc, đánh giá bất thường.

đặc biệt, trị số góc van mũi trong và can thiệp các bất thường van

mũi trong qua nội soi hiện nay chưa có nghiên cứu nào được công bố

tại Việt Nam, vì vậy với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này,

đặc biệt, ở đối tượng là người Việt Nam là động lực để chúng tôi

thực hiện đề tài nghiên cứu: Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất

thường van mũi trong qua nội soi.

Với các mục tiêu cụ thể như sau:

1. Khảo sát đặc điểm cấu trúc van mũi trong qua nội soi theo

phân loại của Miman.

2. Xác định trị số góc van mũi trong qua nội soi bằng phần mềm

Autocad 2007.

pdf 27 trang dienloan 3360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất thường van mũi trong qua nội soi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất thường van mũi trong qua nội soi

Tóm tắt Luận án Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất thường van mũi trong qua nội soi
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH 
NGUYỄN TRIẾU VIỆT 
ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ CAN THIỆP 
CÁC BẤT THƯỜNG VAN MŨI TRONG 
QUA NỘI SOI 
Chuyên ngành: Tai Mũi Họng 
 Mã số: 62720155 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC 
 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016 
Công trình được hoàn thành tại: 
ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH 
Người hướng dẫn khoa học: 
1. PGS.TS.TRẦN MINH TRƯỜNG 
2. PGS.TS.LÂM HUYỀN TRÂN 
Phản biện 1: 
Phản biện 2: 
Phản biện 3: 
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường 
Họp tại:. 
Vào hồi .giờ..ngày..thángnăm 
Có thể tìm luận án tại : 
1.Thư viện Quốc gia Việt Nam 
2.Thư viện khoa học tổng hợp TP.HCM 
3.Thư viện Đại học Y Dược TP HCM
1 
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 
1. Đặt vấn đề 
Trong khoảng 10 năm gần đây, y văn thế giới đã công bố các 
nghiên cứu về van mũi trong qua nội soi bao gồm: hình dạng cấu 
trúc, trị số góc van mũi trong và can thiệp phẫu thuật. 
Các nghiên cứu về hình dạng và chỉ số góc van mũi trong đã 
được các tác giả như Miman, Ichimura, Suh đã đề cập đến. Bên cạnh 
đó, đối với phẫu thuật can thiệp các bất thường van mũi trong qua 
nội soi điều trị nghẹt mũi là các nghiên cứu của Clark và Bassiouny. 
 Hiện nay, ở Việt Nam các nghiên cứu liên quan về vấn đề 
van mũi trong rất ít, Nguyễn Thị Thanh Thúy sử dụng các dạng 
mảnh ghép chỉnh hình van mũi bằng đường mổ hở. 
Các khía cạnh như: hình thái cấu trúc, đánh giá bất thường... 
đặc biệt, trị số góc van mũi trong và can thiệp các bất thường van 
mũi trong qua nội soi hiện nay chưa có nghiên cứu nào được công bố 
tại Việt Nam, vì vậy với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, 
đặc biệt, ở đối tượng là người Việt Nam là động lực để chúng tôi 
thực hiện đề tài nghiên cứu: Đặc điểm cấu trúc và can thiệp các bất 
thường van mũi trong qua nội soi. 
Với các mục tiêu cụ thể như sau: 
1. Khảo sát đặc điểm cấu trúc van mũi trong qua nội soi theo 
phân loại của Miman. 
2. Xác định trị số góc van mũi trong qua nội soi bằng phần mềm 
Autocad 2007. 
2 
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp các bất thường cấu trúc của vách 
mũi bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới tại khu vực van mũi trong gây 
nghẹt mũi qua nội soi bằng bảng NOSE và nội soi. 
2. Tính cấp thiết của đề tài 
Hiện nay, các nghiên cứu tại Việt Nam và nước ngoài can 
thiệp phẫu thuật bằng đường mổ hở hay qua nội soi điều trị nghẹt 
mũi mạn tính thường chỉ chú trọng đơn lẻ đến một trong các yếu tố 
như vách ngăn, cuốn mũi dưới và vách mũi bên. Việc đánh giá và 
can thiệp đồng thời cả ba yếu tố trên qua nội soi như là những tác 
nhân phối hợp gây nên tình trạng bất thường van mũi trong gây 
nghẹt mũi mạn tính ở bệnh nhân hầu như chưa có nghiên cứu nào 
được công bố. Bên cạnh đó, hình thái cấu trúc, đặc biệt, trị số góc 
van mũi trong ở những người không có than phiền nghẹt mũi mạn 
tính chưa có nghiên cứu nào được công bố tại Việt Nam. 
3. Những đóng góp mới của luận án 
Kết quả nghiên cứu đã đóng góp những thông tin mới còn 
thiếu về hình dạng cấu trúc van mũi trong qua nội soi gồm 6 dạng là: 
góc nhọn, góc tù, lồi đuôi, lõm đuôi và góc hình thành bởi thân vách 
ngăn. 
Trị số góc van mũi trong bước đầu được xác định tại Việt 
Nam qua nội soi bằng phần mềm AutoCad 2007 là: 26.80±9.280; 
Nhỏ nhất là 90 và lớn nhất là 510. 
Đây là nghiên cứu bước đầu tại Việt Nam sử dụng nội soi 
trong việc đánh giá trước phẫu thuật và trong quá trình phẫu thuật 
cùng lúc cả 03 yếu tố cấu trúc tác động đến sự thông thoáng van mũi 
trong bao gồm: vách mũi bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới, cùng với 
3 
đó là việc áp dụng kỹ thuật đặt mảnh ghép dài khu vực van mũi trong 
qua nội soi với sự cải tiến trong việc tạo khoang (hốc) để đặt mảnh 
ghép và kỹ thuật khâu cố định mảnh ghép dạng ống khít. Kết quả cải 
thiện tốt nghẹt mũi sau phẫu thuật. Thời gian nằm viện chỉ 2-3 ngày, 
không gây dính, sẹo khu vực hốc mũi và bên ngoài mũi. 
4. Bố cục luận án 
Luận án gồm 120 trang: phần đặt vấn đề 3 trang, tổng quan 
tài liệu 35 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 28 trang, kết 
quả nghiên cứu 20 trang, bàn luận 31 trang, kết luận 2 trang, kiến 
nghị 1 trang. Có 50 hình, 50 bảng và 70 tài liệu tham khảo (04 tài liệu 
tham khảo tiếng Việt và 66 tài liệu tiếng nước ngoài). 
NỘI DUNG LUẬN ÁN 
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1 Định nghĩa xác định van mũi, van mũi ngoài, van mũi trong 
và góc van mũi trong: 
Định nghĩa xác định van mũi theo Hội Tai Mũi Họng Hoa 
Kỳ, các tác giả André, Cole, Bloching: van mũi, phần van mũi trong 
và van mũi ngoài được mô tả về mặt giải phẫu là khu vực cắt ngang 
của khoang mũi chiếm tổng trở kháng lớn nhất đối với dòng khí qua 
mũi, do vậy tác động chính đến việc hít vào. 
Van mũi ngoài: được xác định là khu vực của tiền đình, dưới 
cánh mũi, hình thành bởi đuôi vách ngăn, trụ giữa của các sụn cánh 
mũi, rìa cánh mũi và thềm cửa mũi. 
Van mũi trong: nằm khoảng 1.3cm từ cửa mũi và tương ứng 
với khu vực nằm bên dưới sụn cánh mũi bên trên, giới hạn giữa là 
4 
lưng vách ngăn, bên dưới là đầu cuốn dưới và phía bên là sụn cánh 
mũi bên trên. Góc van mũi trong: góc được hình thành bởi sụn vách 
ngăn và sụn cánh mũi bên trên, trị số ở người châu Âu là 10-150. 
1.2 Giải phẫu van mũi trong 
Van mũi trong là phân khúc ba chiều hẹp nhất của toàn bộ 
đường thở ở mũi và được bao bởi những yếu tố sau: 
. Phía bên trên là rìa đuôi của sụn cánh mũi bên trên; Phía 
bên là tam giác trống được hình thành bởi mô sợi-mỡ; Phía bên dưới 
bởi rìa của sụn cánh mũi bên dưới; Ở giữa bởi vách ngăn; Phía giữa 
dưới bởi gai mũi trước; Phía dưới bởi sàn mũi và gờ trước hố lê; Phía 
sau bởi đầu cuốn mũi dưới. 
1.3 Các nghiên cứu về hình dạng cấu trúc và góc van mũi trong 
qua nội soi 
Hình 1.1 Minh họa van mũi trong bao gồm: khu vực van 
mũi trong, góc van mũi trong và trị số góc van mũi trong 
theo André (2010) 
Vách mũi bên 
Đầu cuốn 
mũi dưới 
Van mũi trong 
Góc van mũi 
trong 
Khu vực van 
mũi trong 
5 
Miman (2006) là người đầu tiên và duy nhất cho đến hiện 
nay thực hiện một nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về các hình thái cấu 
trúc van mũi trong qua nội soi. Phân loại có được bao gồm 6 loại 
khác nhau với kết quả tương ứng như sau: góc hình thành bởi thân 
vách ngăn 52%, góc nhọn 21.77%, góc tù 10.48%, dạng lồi đuôi 
9.27%, dạng lõm đuôi 4.84%, dạng xoắn đuôi 1.61%. 
Ichimura (1997) xác định được trị số góc của 160/232 (69%) 
bên mũi với giá trị trung bình là 28.9± 6.3 nhỏ nhất 160, lớn nhất 450. 
1.4 Vai trò nghiệm pháp Cottle và Cottle cải tiến và nghiệm pháp 
que thăm dò mô phỏng mảnh ghép trong đánh giá van mũi trong 
Nghiệm pháp Cottle được sử dụng toàn cầu bởi các nhà mũi 
học, đại diện cho tính thống nhất của khu vực van mũi. 
Nghiệm pháp Cottle cải tiến dùng que tăm bông loại thường 
dùng ở tai bao gồm 2 thao tác để đánh giá 2 vị trí bất thường là sụn 
cánh mũi bên dưới và sụn cánh mũi bên trên. 
Nghiệm pháp que thăm dò mô phỏng mảnh ghép 
André
(2004) và cộng sự lần đầu mô tả việc thực hiện 
nghiệm pháp mô phỏng mảnh ghép trong việc đánh giá bệnh nhân 
bằng cách dùng đầu que tăm bông đặt vào đỉnh của góc van mũi 
trong giống như vị trí được mong đợi sẽ đặt mảnh ghép dài khi phẫu 
thuật thực tế xem bệnh nhân có cải thiện nghẹt mũi không. Dựa vào 
kết quả đánh giá để quyết định can thiệp phẫu thuật. 
1.5 Các thăm dò khách quan và mối tương quan với cảm nhận 
chủ quan của bệnh nhân 
Theo Hội Tai Mũi Họng Hoa Kỳ, André, Miman hiện tại 
không có phương pháp thăm dò khách quan nào là tiêu chuẩn vàng 
6 
đối với bất thường van mũi, vách ngăn và cuốn mũi dưới. Hai thăm 
dò chức năng là đo khí áp mũi và đo sóng âm mũi không đạt được sự 
nhất trí để được xem như là một thăm dò hữu ích đối với bất thường 
van mũi. Chỉ duy nhất nội soi được nhất trí trong việc đánh giá bất 
thường van mũi. Cảm nhận chủ quan của bệnh nhân về sự thông 
thoáng, khi đánh giá bằng các bảng được lượng giá vẫn mang lại 
thông tin giá trị nhất liên quan đến mức độ nghẹt mũi 
1.6 Can thiệp các bất thường van mũi trong gây nghẹt mũi 
Theo nhận định của một loạt các tác giả thực hiện nghiên 
cứu về phẫu thuật khu vực van mũi trong như: Fung, Cannon, Yoo, 
Buyten, Constantinides... việc can thiệp các yếu tố bất thường cấu 
trúc khu vực van mũi trong gây nghẹt mũi nên bao gồm: vách mũi 
bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới. Ba yếu tố này được đề cập đến 
như là những nguyên nhân không thể bỏ qua khi đánh giá trên những 
bệnh nhân nghẹt mũi do bất thường van mũi trong 
1.7 Kỹ thuật can thiệp chỉnh hình van mũi trong 
Năm 1984 Sheen đưa ra kỹ thuật đặt mảnh ghép dài khu vực 
van mũi trong. Kỹ thuật này có thể thực hiện qua đường mổ hở hay 
tiếp cận trong mũi và gần đây là qua nội soi. Nội soi đặt mảnh ghép 
dài lần đầu tiên được tác giả Clark Huang và cộng sự thực hiện năm 
2006 trên 8 xác. Bassiouny (2010) là người đầu tiên mô tả kỹ thuật 
đặt mảnh ghép dài qua nội soi để chữa ngáy và nghẹt mũi trên 17 
bệnh nhân với hiệu quả mang lại tốt. Các tác giả ghi nhận việc sử 
dụng nội soi mang lại giá trị trong việc bóc tách chính xác niêm mạc 
ở khu vực van mũi trong tránh xé rách niêm mạc và xơ dính sau phẫu 
thuật. 
7 
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Phương pháp nghiên cứu trên những người không có than 
phiền nghẹt mũi mạn tính xác định hình dạng van mũi trong, trị 
số góc van mũi trong và các cấu trúc khác tại van mũi trong. 
2.1.1 Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang mô tả 
2.1.2 Phương pháp chọn mẫu: ngẫu nhiên thuận tiện. Số mẫu thu 
được là 139 trường hợp (278 bên hốc mũi) 
2.1.3 Đối tượng chọn mẫu: các sinh viên Y-Nha-Dược của trường 
Đại học Y Dược Cần Thơ 
2.1.4 Cách thức chọn mẫu: các sinh viên Y-Nha-Dược của trường 
Đại học Y Dược Cần Thơ không có than phiền nghẹt mũi mạn tính 
trên 3 tháng. Nơi thực hiện nghiên cứu: Bệnh viện trường Đại học Y 
Dược Cần Thơ. Thời gian thực hiện: từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 
12 năm 2014 
2.1.5 Tiêu chuẩn loại trừ: 
 Nhỏ hơn 18 tuổi; Đã được phẫu thuật vách ngăn, cuốn dưới và 
tháp mũi trước đó; Những trường hợp chấn thương khu vực giữa 
mặt; Đang đợt viêm mũi xoang cấp 
2.1.6 Phương tiện và điều kiện nghiên cứu: các thiết bị nội soi chẩn 
đoán, phần mềm thu chụp hình ảnh, ống soi Karl Storz 00, 4mm. 
Phần mềm dùng để đo trị số góc van mũi trong là Autocad phiên bản 
2007. Phần mềm dùng để xem và phân tích cấu trúc khu vực van mũi 
trong là Windows Photo Viewer. 
2.1.7 Phương pháp lấy mẫu: 139 sinh viên tham gia nghiên cứu được 
nội soi mỗi bên mũi 2 lần trước và sau khi xịt thuốc co mạch tại chỗ. 
8 
 Phương thức soi và vị trí ghi nhận hình ảnh khu vực van mũi 
trong để phân tích được thực hiện như mô tả của Miman và 
Ichimura. 
 Ống soi được đưa vào hốc mũi song song với rìa đuôi của 
sụn cánh mũi bên trên để chụp hình khu vực van mũi trong. Tiếp tục 
điều chỉnh ống soi xuống khu vực thấp phía sàn mũi ghi hình cuốn 
mũi dưới và phần thấp của vách ngăn. Trong quá trình soi, ghi hình 
không để ống soi chạm vào các cấu trúc trong hốc mũi. Cách đo xác 
định trị số góc van mũi trong được thực hiện trên các cửa sổ của 
phần mềm AutoCad 2007. 
Hình 2.1 Minh họa kết quả sau khi xác định trị số góc van 
mũi trong bằng phần mềm AutoCad 2007 
Cách đo xác định trị số góc van mũi trong được thực hiện trên 
các cửa sổ của phần mềm AutoCad 2007. 
2.2 Phương pháp nghiên cứu can thiệp trên bệnh nhân có bất 
thường các cấu trúc của vách ngăn, vách mũi bên và cuốn dưới 
tại khu vực van mũi trong gây nghẹt mũi: 
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu: can thiệp không nhóm chứng 
9 
2.2.2 Số mẫu thực hiện được từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 01 
năm 2015 là 35 bệnh nhân 
2.2.3 Đối tượng chọn mẫu: các bệnh nhân đến khám tại Phòng khám 
Tai Mũi Họng, Bệnh viện trường Đại Học Y Dược Cần Thơ với than 
phiền chính yếu là nghẹt mũi mạn tính trên 3 tháng. 
2.2.4 Tiêu chuẩn chọn mẫu: 
Các bệnh nhân có than phiền nghẹt mũi mạn tính với đánh giá 
nguyên nhân là do bất thường các cấu trúc khu vực van mũi trong 
bao gồm: vách mũi bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới có chỉ định can 
thiệp phẫu thuật nội soi một hoặc tất cả các yếu tố trên. 
2.2.5 Tiêu chuẩn loại trừ và chống chỉ định phẫu thuật: có các bệnh 
lý đi kèm không thể sử dụng phương pháp gây mê toàn thân; Đang 
đợt viêm mũi xoang cấp; Nghẹt mũi do các nguyên nhân khác như: 
polyp mũi, khối u... 
2.2.6 Cách thức chọn lựa phương thức phẫu thuật: khám và đánh giá 
thu thập thông tin hoàn thành bệnh án nghiên cứu 
2.2.6.1 Khám thường quy bằng đèn đội đầu khu vực hốc mũi hai bên, 
đánh giá các bất thường sơ bộ và quan sát hiện tượng sụp lõm cánh 
mũi khi hít vào xác định có hay không dấu hiệu này để đánh giá mức 
độ vững chắc của vách mũi bên. 
2.2.6.2 Soi đánh giá hốc mũi bao gồm cấu trúc van mũi trong, vách 
ngăn và cuốn mũi dưới. 
2.3 Xử lý số liệu: Các kết quả của cả hai nhóm nghiên cứu sẽ được 
xử lý bằng phần mềm SPSS 18.0. 
10 
2.4 Phương pháp phẫu thuật dựa trên kết quả đánh giá từng bất 
thường cấu trúc khu vực van mũi trong như sau: 
+ Khi van mũi trong của bệnh nhân có sụp vách mũi bên khi hít 
vào, kết hợp với nghiệm pháp Cottle và Cottle dương tính tương ứng 
với sụp khu vực sụn cánh mũi bên trên, cùng với nghiệm pháp que 
thăm dò mô phỏng mảnh ghép dương tính sẽ được thực hiện chỉnh 
hình van mũi trong bằng kỹ thuật đặt mảnh ghép dài qua nội soi. Với 
sự cải tiến của việc tạo khoang (hốc) để đặt mảnh ghép dài và sử 
dụng kỹ thuật khâu cố định mảnh ghép dạng ống khít. 
+ Nếu bệnh nhân có lệch vách ngăn phát hiện trên nội soi có ảnh 
hưởng đến khu vực van mũi trong thì thực hiện chỉnh hình vách ngăn 
qua nội soi. 
+ Nếu bệnh nhân có cải thiện nghẹt mũi sau xịt thuốc co mạch và 
đánh giá mức độ quá phát theo Friedman sẽ cần can thiệp đốt điện 
cuốn dưới qua nội soi bằng dao điện đơn cực. 
Dựa vào kết quả đánh giá trên mỗi bệnh nhân, xác định được các 
yếu tố bất thường cấu trúc là vách mũi bên, vách ngăn và cuốn dưới 
tác động riêng lẻ hay phối hợp đến khu vực van mũi trong gây nghẹt 
mũi ở một bên hốc mũi hay cả hai bên hốc mũi. 
Tiếp theo, các phương thức phẫu thuật nội soi được chọn tùy vào 
yếu tố cấu trúc gây nghẹt mũi bao gồm: chỉnh hình van mũi trong 
bằng cách đặt mảnh ghép dài cho sụp khu vực sụn cánh mũi bên trên 
của vách mũi bên, chỉnh hình vách ngăn khi lệch vách ngăn ảnh 
hưởng sự thông thoáng van mũi trong và đốt điện cuốn dưới khi quá 
phát cuốn dưới gây giảm thông thoáng van mũi trong. 
11 
Các kỹ thuật can thiệp trên sẽ được thực hiện riêng lẻ hay phối 
hợp qua nội soi ở một bên hay hai bên hốc mũi cùng lúc. 
2.5 Phân nhóm phẫu thuật: trong số 35 bệnh nhân phẫu thuật sau khi 
thăm khám được chia làm 02 nhóm: 
Nhóm 01 bao gồm 17 bệnh nhân được thực hiện can thiệp: chỉnh 
hình van mũi trong và chỉnh hình vách ngăn và/hoặc chỉnh hình cuốn 
dưới 01 bên hay 02 bên. 
Nhóm 02 bao gồm 18 bệnh nhân được thực hiện can thiệp: chỉnh 
hình vách ngăn và chỉnh hình cuốn mũi dưới 01 bên hay 02 bên. 
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1 Kết quả nghiên cứu đặc điểm cấu trúc van mũi trong trê ... 90%, còn lại độ I chỉ chiếm 
8.6%. Kết quả sau phẫu thuật cho thấy số lượng cuốn mũi dưới quá 
phát độ I chiếm đa số 65/70 bên. Ghi nhận 01 trường hợp xoang hơi 
cuốn dưới ở các bệnh nhân phẫu thuật. 
3.2.7 Kết quả đánh giá thay đổi mức độ nghẹt mũi trước và sau phẫu 
thuật 
Điểm NOSE trung bình cho 35 trường hợp trước phẫu thuật 
là 78.75 theo thang điểm 0-100 và 3.15 theo thang điểm 0-4. Đánh 
giá ở thời điểm kết thúc nghiên cứu NOSE giảm còn 4.75 theo thang 
điểm 0-100, và 0.19 theo thang điểm 0-4. Với 31.4% bệnh nhân 
không còn nghẹt mũi và 68.6% còn nghẹt mũi rất ít . 
3.2.8 Nguyên nhân phẫu thuật 
Nguyên nhân chủ yếu để bệnh nhân cần phẫu thuật trong 
nghiên cứu này là những bất thường bẩm sinh gây nên bất thường 
khu vực van mũi trong bao gồm: vách ngăn, cuốn dưới và vách mũi 
bên chiếm tỉ lệ 32/35 bệnh nhân. 
15 
3.2.9 Kết quả trị số góc van mũi trong trước và sau phẫu thuật 
Kết quả ghi nhận trị số góc van mũi trong trung bình trước 
phẫu thuật của 17 bệnh nhân với 20 bên góc van mũi trong có đặt 
mảnh ghép dài là 14.60. Kết quả tương ứng sau phẫu thuật là 19.90. 
3.2.10 Kết quả sau can thiệp cuốn dưới 
 Kết quả cho thấy tỉ lệ cuốn mũi dưới quá phát độ I tăng dần 
theo thời gian sau phẫu thuật. 
 Ghi nhận sau phẫu thuật sau khi xịt thuốc co mạch 15 phút, 
100% cuốn dưới đáp ứng tốt về độ I. 
3.2.11 Các ghi nhận khác liên quan việc theo dõi chăm sóc sau phẫu 
thuật 
 . Thời gian lưu merocel 01 ngày và nằm viện trung bình là 2-3 
ngày. 
 . Hiện tượng phù nề, sẹo bên ngoài mũi không có. 
Chương 4: BÀN LUẬN 
4.1 Kết quả ở nhóm không có than phiền nghẹt mũi mạn tính 
4.1.1 Số mẫu nghiên cứu, tuổi và giới: 
Nghiên cứu của Miman (2006), số mẫu là 128; Nghiên cứu 
của Ichimura (1997) số mẫu là 126; Nghiên cứu của chúng tôi số 
mẫu là 139. So với hai nghiên cứu của Miman (2006) và Ichimura 
(1997) số lượng mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi gần tương 
đương. Đối với tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu, độ tuổi trung 
bình của chúng tôi nhỏ hơn đáng kể so với nhóm nghiên cứu của 
Ichimura 21.2 so với 47.7. Nhưng khác biệt là không đáng kể so với 
độ tuổi trong nhóm nghiên cứu của Miman. Sự khác biệt này do đối 
tượng chọn mẫu của chúng tôi là các sinh viên năm 1-3 với độ tuổi 
của lứa tuổi này là từ 18-22. 
16 
4.1.2 Kết quả các dạng van mũi trong qua nội soi 
Bảng 4.1 So sánh kết quả các dạng van mũi trong qua nội soi 
Dạng van mũi 
trong 
Nghiên cứu của 
Miman 
Nghiên cứu của 
chúng tôi 
Góc nhọn 54 (21.8%) 89 (32%) 
Góc tù 26 (10.4%) 34 (12.2%) 
Dạng lõm đuôi 12 (4.9%) 14 (5%) 
Dạng lồi đuôi 23 (9.3%) 14 (5%) 
Góc hình thành 
bởi thân vách 
ngăn 
129 (52%) 95 (34.2%) 
Dạng xoắn đuôi 4 (1.6%) 32 (11.6%) 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ các dạng van mũi 
trong so với tỉ lệ tương ứng trong nghiên cứu của Miman có sự khác 
biệt có thể giải thích là do cấu trúc tháp mũi trên người Việt Nam 
khác rõ rệt so với cấu trúc tháp mũi của người Châu Âu trong nghiên 
cứu của Miman. Sự khác biệt này theo nghiên cứu của Ts Trần Thị 
Anh Tú, cho thấy mũi người Việt Nam có những đặc điểm của người 
da vàng: mũi thấp, sống mũi lõm chiếm tỉ lệ cao, cánh mũi phồng. 
Mũi người Việt Nam ngắn, thấp và ít nhô hơn người da trắng. 
4.1.3 Xác định góc van mũi và trị số góc van mũi qua nội soi dùng 
phần mềm AutoCad 2007: 
17 
Bảng 4.2 So sánh kết quả trị số góc van mũi trong 
Nghiên cứu Trị số góc 
Số van mũi trong 
được xác định trị 
số góc 
Miman 
(2006) 
Không có trị số chung 89/248 bên 
Ichimura 
(1997) 
28.9±6.3
0 
Nhỏ nhất 160 , lớn nhất 450 
160/232 bên 
Nghiên cứu 
của chúng tôi 
26.8±9.28
0
Nhỏ nhất 90, lớn nhất 510 
117/278 bên 
Kết quả nghiên cứu của Miman không có trị số góc chung 
cho tất cả các van mũi trong đo được. Tác giả chia làm 03 nhóm với 
kết quả tương ứng của 03 dạng van mũi trong khác nhau là góc nhọn, 
dạng lõm đuôi và dạng lồi đuôi và không xác định được trị số góc 
van mũi trong ở các dạng xoắn đuôi, góc tù và góc hình thành bởi 
thân vách ngăn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, việc xác định trị số góc van 
mũi trong ở các dạng góc tù, xoắn đuôi và góc hình thành bởi thân 
vách ngăn cũng không thực hiện do không xác định được đỉnh và 
góc chính xác (thật sự) ở những dạng này để đo trị số góc. Chúng tôi 
xác định trị số góc ở từng dạng góc nhọn, lõm đuôi và lồi đuôi và trị 
số chung cho cả 03 nhóm như kết quả trên. 
18 
Ichimura không chia từng loại để tính, chỉ nêu kết quả trung 
bình của nam và nữ và kết quả chung của cả hai giới như trên là 
28.9±6.3
0
, nhỏ nhất 160 và lớn nhất 450. Kết quả của chúng tôi là 
26.8±9.28
0
, nhỏ nhất 90 và lớn nhất 51.0 
So sánh các kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy kết quả 
của chúng tôi gần tương đương với kết quả của tác giả Ichimura. 
Điều này có thể lý giải có được là do sự tương đồng về mặt chủng 
tộc là người da vàng-Châu Á với cấu trúc tháp mũi tương tự nhau. 
Xét đến trị số góc của người phương tây, các tài liệu đều đề 
cập trị số là 10-150 được Mink đưa ra vào năm 1903. Tuy nhiên, cho 
đến nay không có diễn giải nào đầy đủ về nguồn gốc của thông tin về 
trị số góc này được đưa ra như trên. 
Do vậy với kết quả của chúng tôi thu được về chỉ số góc van 
mũi trong lần đầu tiên được nghiên cứu trên một nhóm người Việt 
Nam không có than phiền nghẹt mũi mạn tính và kết quả có được từ 
nghiên cứu của Ichimura chỉ có thể xem như trị số góc van mũi trong 
của Châu Á gấp đôi trị số góc của người phương tây. 
4.2 Bàn luận kết quả trên nhóm bệnh nhân được can thiệp các 
bất thường cấu trúc khu vực van mũi trong gây nghẹt mũi 
4.2.1 Bàn luận về số mẫu và giới tính trong nghiên cứu can thiệp 
Số mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi (N=35) cao hơn của 
Constantinides (N=19), nếu so với chỉ nhóm người Châu Á trong 
nghiên cứu của Yoo (N=41), nghiên cứu của chúng tôi có số mẫu cao 
hơn khoảng gần 30%. So với nghiên cứu của André thì nghiên cứu 
của chúng tôi ít hơn. 
4.2.2 Bàn luận về việc đánh giá trước phẫu thuật 
19 
Trong nghiên cứu của chúng tôi và ba nghiên cứu của Yoo, 
André, Constantinides, việc đánh giá trước phẫu thuật để đưa ra chỉ 
định can thiệp bao gồm các phần sau: 
. Đánh giá bất thường vách mũi bên của khu vực van mũi trong bằng 
nghiệm pháp Cottle và Cottle cải tiến và sử dụng thêm nghiệm pháp 
mô phỏng mảnh ghép giống như mô tả của André, giúp xác định bất 
thường khu vực van mũi trong là do hẹp góc van mũi trong và sụp 
sụn cánh mũi bên trên. 
. Thăm khám thường quy và qua nội soi xác định các bất thường 
khác của vách ngăn và cuốn mũi dưới tác động đến khu vực van mũi 
trong để quyết định can thiệp phẫu thuật hai cấu trúc này như trong 
nghiên cứu của Yoo và ý kiến của Buyten. 
. Đánh giá kết quả phẫu thuật bằng bảng tự đánh giá của bệnh nhân 
trước và sau phẫu thuật theo hướng dẫn năm 2010 của Hội Tai Mũi 
Họng Hoa Kỳ và các tác giả André, Yoo, Constantinides. 
. Các nghiên cứu được tham khảo ở trên không sử dụng các phương 
pháp thăm dò khách quan như đo khí áp mũi hay đo sóng âm mũi để 
đánh giá và so sánh kết quả trước và sau phẫu thuật van mũi trong. 
Tương tự, trong nghiên cứu này, chúng tôi không sử dụng các 
phương pháp thăm dò khách quan để chẩn đoán các bất thường van 
mũi trong trước phẫu thuật và theo dõi sau phẫu thuật, việc này phù 
hợp với hướng dẫn của Hội Tai Mũi Họng Hoa Kỳ, các tác giả 
André, Bloching: ”hiện nay, chưa có một phương pháp thăm dò 
khách quan nào là tiêu chuẩn vàng” và “đo lường kết quả được ghi 
nhận bởi bệnh nhân quan trọng hơn các đo lường khách quan”. 
4.2.3 Đánh giá về chỉ định phẫu thuật 
20 
Nghiên cứu của ba tác giả nước ngoài được đề cập ở trên và 
nghiên cứu của chúng tôi khi đề cập đến can thiệp các bất thường 
khu vực van mũi là sự phối hợp của nhiều hơn một kỹ thuật để có thể 
sửa chữa một cách tương đối đầy đủ các bất thường cấu trúc khu vực 
van mũi trong bao gồm: vách mũi bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới. 
Việc xem các yếu tố vách ngăn, cuốn mũi dưới, và vách mũi 
bên như các yếu tố tác động đến sự thông thoáng khu vực van mũi 
trong và can thiệp các thành phần này là phù hợp với những khuyến 
cáo của Buyten, Marc Bloching, Rhee, Cannon và của Hội Tai Mũi 
Họng Hoa Kỳ. Hiện nay, chưa có nghiên cứu nào trên thế giới sử 
dụng nội soi để đánh giá và phẫu thuật đồng thời cả ba yếu tố bất 
thường khu vực van mũi trong là vách mũi bên, vách ngăn và cuốn 
mũi dưới như nghiên cứu của chúng tôi. 
4.2.4 Bàn luận về kết quả phẫu thuật 
4.2.4.1. Thay đổi hình dạng và mức độ lệch vẹo vách ngăn 
Chúng tôi nhận thấy: qua can thiệp bằng nội soi các lệch 
vách ngăn mang lại kết quả tốt, điều chỉnh được các bất thường tác 
động lên khu vực van mũi trong. Tỉ lệ biến chứng thấp, chỉ ghi nhận 
01 trường hợp thủng vách ngăn nhỏ khoảng 4mm và không gây khó 
chịu. 
4.2.4.2 Thay đổi cuốn dưới trước và sau phẫu thuật 
Kết quả cho thấy 100% số trường hợp có sự thay đổi đáng kể 
mức độ quá phát của cuốn mũi dưới sau phẫu thuật cộng với sự 
không còn độ III khi soi và tất cả đáp ứng tốt với thuốc co mạch xịt 
mũi khi trở về độ I. So sánh kết quả sau phẫu thuật với kết quả có 
được trên đối tượng không có than phiền nghẹt mũi, có thể nhận thấy 
21 
sự thay đổi đáng kể về mức độ quá phát của cuốn dưới sau khi được 
can thiệp phẫu thuật. 
4.2.4.3 Bàn luận về sự thay đổi điểm NOSE trước và sau phẫu thuật 
 Sau phẫu thuật điểm NOSE giảm xuống ở mức gần như 
nghẹt mũi không ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Kết quả này 
có được là do việc kết hợp giữa các đánh giá về hình ảnh học qua ghi 
nhận trên nội soi giúp xác định chính xác vị trí lệch, mức độ lệch của 
vách ngăn tác động trên khu vực van mũi trong cùng với sự thay đổi 
mức độ quá phát của cuốn dưới và sử dụng các nghiệm pháp Cottle, 
Cottle cải tiến, nghiệm pháp que thăm dò mô phỏng mảnh ghép để 
xác định sụp, lõm của vách mũi bên. 
4.2.4.4 Thay đổi trị số góc van mũi trong 
Bảng 4.3 So sánh trị số góc van mũi trong ở nhóm can thiệp trước 
phẫu thuật và ở nhóm không có than phiền nghẹt mũi 
Trị số góc van 
mũi trong 
Nhóm không nghẹt 
mũi 
Nhóm can thiệp trước 
phẫu thuật 
26.8
0
 14.6
0
Kết quả so sánh cho thấy trị số góc van mũi trong trung bình 
ở nhóm can thiệp đặt mảnh ghép dài nhỏ hơn nhiều so với trị số ở 
những người không có than phiền nghẹt mũi. Thông tin này góp 
phần lý giải được hiện tượng nghẹt mũi xảy ra trên những bệnh nhân 
khi có trị số góc van mũi nhỏ hơn trị số trung bình của những người 
không than phiền nghẹt mũi. 
22 
Bảng 4.4 Thay đổi trị số góc van mũi trong trước và sau phẫu thuật 
Nghiên cứu của 
chúng tôi 20 bên 
mũi được đặt 
mảnh ghép dài 
Trị số góc van 
mũi trong 
Trước phẫu 
thuật 
Trị số góc van 
mũi trong 
Sau phẫu thuật 
Tỉ lệ trị 
số góc 
gia tăng 
14.6
0 
19.9
0 
36.4% 
Kết quả cho thấy sự thay đổi đáng kể trị số góc van mũi 
trong trước và sau khi can thiệp với sự gia tăng 36.4%. Mặc dù trị số 
góc sau phẫu thuật gia tăng chưa tới mức trung bình ở những người 
không có than phiền nghẹt mũi 19.90 so với 26.80 nhưng hiệu quả 
đem lại rất cao với những trường hợp bệnh nhân không còn cảm giác 
nghẹt mũi. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu đặc điểm cấu trúc van mũi trong trên 139 
người không có than phiền nghẹt mũi mạn tính và phẫu thuật trên 35 
bệnh nhân có bất thường cấu trúc khu vực van mũi trong gây nghẹt 
mũi tại Bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ, chúng tôi rút 
ra những kết luận sau: 
1. Kết quả ở nhóm 139 người không có than phiền nghẹt mũi 
mạn tính bao gồm: 61 nam và 78 nữ. Số lượng các dạng cấu trúc khu 
vực van mũi trong dựa theo phân loại của Miman qua nội soi là: góc 
nhọn 32.01%, góc tù 12.23%, dạng lõm đuôi 5.04%, dạng lồi đuôi 
5.04%, góc hình thành bởi thân vách ngăn 34.17% và dạng xoắn đuôi 
11.51% . 
23 
2. Trị số góc van mũi trong được xác định qua nội soi và bằng 
phần mềm Autocad 2007 trên 139 người không có than phiền nghẹt 
mũi mạn tính là 26.8±9.280; Nhỏ nhất là 90 và lớn nhất là 510. 
3. Kết quả sau can thiệp phẫu thuật nội soi các bất thường cấu 
trúc khu vực van mũi trong bao gồm: vách mũi bên, vách ngăn và 
cuốn mũi dưới gây nghẹt mũi là: 
. Cải thiện đáng kể cảm giác nghẹt mũi trên 35 bệnh nhân với 
31.4% bệnh nhân không còn nghẹt mũi sau phẫu thuật và 68.6% 
bệnh nhân nghẹt mũi ảnh hưởng rất ít. 
. Tăng 36.4% trị số góc van mũi trong từ 14.60 lên 19.90 ở các 
bệnh nhân được can thiệp bằng kỹ thuật đặt mảnh ghép dài qua nội 
soi với kỹ thuật khâu cố định mảnh ghép bằng kỹ thuật cố định khít 
dạng ống, có cải tiến bằng cách tạo khoang (hốc) chứa mảnh ghép, 
bước đầu được thực hiện tại Việt Nam. 
. Các lệch vách ngăn và cuốn dưới sau khi được can thiệp không 
còn ảnh hưởng đến sự thông thoáng khu vực van mũi trong. 
. Việc sử dụng nội soi trong đánh giá và can thiệp cả ba bất 
thường về cấu trúc khu vực van mũi trong gây nghẹt mũi bao gồm: 
vách mũi bên, vách ngăn và cuốn mũi dưới giúp hạn chế những biến 
chứng phẫu thuật, can thiệp ngay trong lúc phẫu thuật những biến 
chứng. 
24 
Kiến nghị 
1. Thực hiện thêm các nghiên cứu khác trên những đối tượng 
dân tộc khác nhau hiện đang sinh sống tại Việt Nam để có kết quả trị 
số góc van mũi trong chính xác và dạng cấu trúc van mũi trong của 
người Việt Nam. 
2. Cần sự phối hợp giữa các bộ môn chuyên khoa Tai Mũi 
Họng của các cơ sở đào tạo trong cả nước và các Hội Tai Mũi Họng 
để đưa ra một hướng dẫn chung trong việc đánh giá và can thiệp các 
bất thường khu vực van mũi trong bao gồm: (1) tiêu chuẩn chẩn 
đoán, (2) phương thức can thiệp: trường hợp nào cần phẫu thuật hở, 
trường hợp nào dùng đường trong mũi, trường hợp nào cần phẫu 
thuật nội soi hoặc khi nào cần phối hợp các kỹ thuật tiếp cận khác 
nhau. Bên cạnh đó là việc sử dụng các dạng mảnh ghép khác nhau 
cần được định hướng chọn lựa trên mỗi trường hợp cụ thể. 
3. Việc đánh giá vách mũi bên cần được lưu ý đến trong quá 
trình can thiệp các nghẹt mũi mạn tính cùng với đó là đánh giá vách 
ngăn và cuốn mũi dưới như là những yếu tố gắn kết với nhau gây nên 
bất thường khu vực van mũi trong trên mỗi bệnh nhân đến khám. 
4. Bảng lượng giá về than phiền nghẹt mũi của bệnh nhân 
cần được phối hợp thực hiện thống nhất để thuận tiện cho việc đánh 
giá và so sánh các kết quả giữa những nghiên cứu khác nhau. 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ 
TÀI ĐÃ CÔNG BỐ 
1. Nguyễn Triều Việt, Trần Minh Trường, Lâm Huyền 
Trân (2015), “Trị số góc van mũi trong được xác định 
qua nội soi”. Tạp chí Y Học Thực Hành số 4 (958), tr. 
14-16. 
2. Nguyễn Triều Việt, Trần Minh Trường, Lâm Huyền 
Trân (2015), “Đặc điểm cấu trúc van mũi trong qua nội 
soi”. Tạp chí Y Học Thực Hành số 4 (958), tr. 84-86. 
3. Nguyễn Triều Việt, Trần Minh Trường, Lâm Huyền 
Trân (2015), “Đánh giá hiệu quả can thiệp các bất 
thường cấu trúc vùng vách mũi bên, vách ngăn và cuốn 
mũi dưới tại khu vực van mũi trong gây nghẹt mũi qua 
nội soi trên 35 bệnh nhân tại bệnh viện trường Đại học 
Y Dược Cần Thơ”. Tạp chí Y Học Thực Hành số 5 
(964), tr. 12-15. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_dac_diem_cau_truc_va_can_thiep_cac_bat_thuon.pdf