Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà
Vùng biển vịnh Vân Phong (VVP) là nơi có nhiều nguồn lợi thủy sản đa dạng và
phong phú với nhiều hệ sinh thái, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đây là nơi sinh
sản, nuôi dưỡng ấu trùng, cá con để cung cấp nguồn lợi cho vùng biển ven bờ, vùng
lộng, vùng khơi [22,27].
Nguồn lợi cá ở VVP đa dạng về chủng loại: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ
và 215 giống; nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô có 283 loài, nhóm cá nổi có 68
loài. Trong đó, loài có giá trị kinh tế là 68 loài như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá
trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng [19]. Các rạn san hô trong VVP không còn duy trì ở
tình trạng tốt: độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), san hô cứng
chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%) [26].
Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển, phổ biến và chiếm ưu thế là loài
cỏ lá dừa, cỏ vích. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoà và nhóm
nghiên cứu thì diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã
Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng) tiếp tục suy giảm giai đoạn 2007-2013 [18].
Diện tích rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp
phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy
sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng
17,7 ha). Diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ (năm 2001) có khoảng 15 ha, đến năm
2009 chỉ còn lại 8,83 ha và tiếp tục thu hẹp diện tích tính đến tháng 6/2013 do người
dân phá rừng để làm nhà, nuôi trồng thuỷ sản [18].
Qua khảo sát sơ bộ trong nhiều năm qua VVP là ngư trường thuận lợi cho các hộ
dân sống xung quanh VVP với tổng số tàu thuyền là 1068 tàu của các nghề lưới kéo,
lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề khác. Điều này làm cho áp lực khai thác đã
vượt 3,23 lần so với quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến 2020 [13]. Đặc biệt, ở đây
có những nghề khai thác gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản, phá hoại rạn san hô như
nghề khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị
định 33/2010/NĐ-CP [12], Thông tư 02/2006/TT-BTS [8] và quyết định 05/2014/QĐ-
UBND [35] đã quy định cấm các nghề lưới kéo, các tàu có công suất ≥20CV hoạt
động trong VVP nhưng các tàu này vẫn ngang nhiên hoạt động với số lượng lớn ở
VVP.
Với thực trạng đó nguồn lợi thuỷ sản ở VVP đang có dấu hiệu cạn kiệt, các nơi
trú ẩn (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biện) đang bị phá huỷ và diện tích đang bị
thu hẹp dần.
Từ những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà" là
cần thiết. Luận án tập trung vào các nội dung chính sau: thực trạng khai thác thuỷ sản
tại vịnh Vân Phong; những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân
Phong; giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ------------------------------------- VŨ KẾ NGHIỆP GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN TẠI VỊNH VÂN PHONG TỈNH KHÁNH HOÀ Ngành đào tạo: Kỹ thuật Khai thác thuỷ sản Mã số: 62620304 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHÁNH HOÀ - 2017 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Nha Trang Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phan Trọng Huyến 2. TS. Trần Đức Phú Phản biện 1: TS. Hoàng Hoa Hồng Phản biện 2: TS. Nguyễn Long Phản biện 3: TS. Thái Văn Ngạn Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Trường Đại học Nha Trang vào hồi ngày tháng năm 2017. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Trường Đại học Nha Trang 1 TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Đề tài luận án: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà Ngành: Kỹ thuật khai thác thủy sản Mã số: 62620304 Nghiên cứu sinh: Vũ Kế Nghiệp Khoá: 2010 Người hướng dẫn: 1. TS. Phan Trọng Huyến 2. TS. Trần Đức Phú Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nha Trang Nội dung: 1. Luận án đã xây dựng bộ dữ liệu toàn diện về khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong bao gồm thực trạng số lượng tàu thuyền các nghề, cơ cấu các nghề. Đặc biệt, những nghề gây hại đến nguồn lợi như là: khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc, nghề lưới kéo và các tàu có công suất ≥ 20CV mặc dù đã bị cấm (theo Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 31/3/2010 của Chính phủ và quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà) nhưng vẫn hoạt động khai thác thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 2. Luận án đã sử dụng phương pháp hiện đại để tính toán cường lực, sản lượng khai thác bền vững tối đa cho vùng biển vịnh Vân Phong. Đã xác định tương đối chính xác cường lực, sản lượng khai thác tại vịnh Vân Phong hiện nay vượt quá ngưỡng cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa. 3. Luận án đã phân tích, đánh giá toàn diện các nguyên nhân làm cho nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân Phong ngày càng cạn kiệt. Từ đó, đã đề ra năm nhóm giải pháp nhằm hạn chế những nguy cơ trên. - Giải pháp 1: Điều chỉnh hoạt động khai thác thuỷ sản thông qua ngăn ngừa hoạt động của tàu lưới kéo, tàu có công suất ≥20CV trong vùng biển vịnh Vân Phong bằng cách điều chỉnh tổng cường lực nhỏ hơn mức cường lực khai thác hợp lý và biện pháp tuyên truyền giáo dục, chủ tàu đăng ký vùng hoạt động cho tàu của mình, chủ tàu cam kết thực hiện đúng bản đăng ký và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. - Giải pháp 2: Điều chỉnh lại cơ cấu các nghề khai thác bằng cách cắt giảm 220 tàu lưới kéo có công suất dưới 20CV và phân bổ số tàu này cho các nghề nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu và nghề khác. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất 2 bước để thực hiện việc cắt giảm các tàu thuyền làm nghề lưới kéo hoạt động trong vịnh Vân Phong (là nghề đã bị cấm hoạt động trong vịnh Vân Phong theo quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà). - Giải pháp 3: Xử lý đối với số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề khai thác bằng cách chuyển đổi số tàu thuyền nêu trên sang nghề khác ít gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản ở vùng biển vịnh Vân Phong hoặc cải hoán, nâng cấp vỏ tàu, máy tàu để khai thác tại vùng lộng và vùng khơi. - Giải pháp 4: Phục hồi, tái tạo một số nơi cư trú điển hình của các loài hải sản bằng cách: trồng mới, trồng bổ sung để phục hồi các khu vực rạn san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn đã bị tàn phá ở vịnh Vân Phong; giáo dục tuyên truyền để người dân xung quanh vịnh Vân Phong thấy rõ tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô đối với môi trường và nguồn lợi thuỷ sản. - Giải pháp 5: Đã xây dựng được phân vùng khai thác thuỷ sản với tổng diện tích mặt nước là 151,8 km2. Trong đó vùng khai thác của nghề lưới vây - 68,05 km2; nghề lưới rê - 57,52 km2 và nghề câu - 26,23km2. Người hướng dẫn TS. Phan Trọng Huyến TS. Trần Đức Phú Nghiên cứu sinh Vũ Kế Nghiệp 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Vùng biển vịnh Vân Phong (VVP) là nơi có nhiều nguồn lợi thủy sản đa dạng và phong phú với nhiều hệ sinh thái, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đây là nơi sinh sản, nuôi dưỡng ấu trùng, cá con để cung cấp nguồn lợi cho vùng biển ven bờ, vùng lộng, vùng khơi [22,27]. Nguồn lợi cá ở VVP đa dạng về chủng loại: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống; nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô có 283 loài, nhóm cá nổi có 68 loài. Trong đó, loài có giá trị kinh tế là 68 loài như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng[19]. Các rạn san hô trong VVP không còn duy trì ở tình trạng tốt: độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), san hô cứng chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%) [26]. Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển, phổ biến và chiếm ưu thế là loài cỏ lá dừa, cỏ vích. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoà và nhóm nghiên cứu thì diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng) tiếp tục suy giảm giai đoạn 2007-2013 [18]. Diện tích rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng 17,7 ha). Diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ (năm 2001) có khoảng 15 ha, đến năm 2009 chỉ còn lại 8,83 ha và tiếp tục thu hẹp diện tích tính đến tháng 6/2013 do người dân phá rừng để làm nhà, nuôi trồng thuỷ sản [18]. Qua khảo sát sơ bộ trong nhiều năm qua VVP là ngư trường thuận lợi cho các hộ dân sống xung quanh VVP với tổng số tàu thuyền là 1068 tàu của các nghề lưới kéo, lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề khác. Điều này làm cho áp lực khai thác đã vượt 3,23 lần so với quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến 2020 [13]. Đặc biệt, ở đây có những nghề khai thác gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản, phá hoại rạn san hô như nghề khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị định 33/2010/NĐ-CP [12], Thông tư 02/2006/TT-BTS [8] và quyết định 05/2014/QĐ- UBND [35] đã quy định cấm các nghề lưới kéo, các tàu có công suất ≥20CV hoạt động trong VVP nhưng các tàu này vẫn ngang nhiên hoạt động với số lượng lớn ở VVP. Với thực trạng đó nguồn lợi thuỷ sản ở VVP đang có dấu hiệu cạn kiệt, các nơi trú ẩn (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biện) đang bị phá huỷ và diện tích đang bị thu hẹp dần. Từ những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà" là cần thiết. Luận án tập trung vào các nội dung chính sau: thực trạng khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong; những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong; giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 2. Mục tiêu của luận án 2.1. Mục tiêu chung: Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 2.2. Mục tiêu cụ thể: - Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở vịnh Vân Phong. - Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân Phong. 3 - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 3. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động khai thác thủy sản, hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại vịnh Vân Phong. 4. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: + Các địa phương hoạt động khai thác thuỷ sản, cộng đồng ngư dân các xã sống xung quanh vịnh Vân Phong (Vạn Giã, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Thọ, Vạn Lương, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Hưng của huyện Vạn Ninh; Ninh Hải và Ninh Thuỷ của huyện Ninh Hoà). + Vùng biển vịnh Vân Phong - Thời gian: 2010-2015 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 5.1. Ý nghĩa khoa học - Bổ sung nguồn dữ liệu về thực trạng cho lĩnh vực khoa học khai thác thuỷ sản Việt Nam. - Bổ sung phương pháp khoa học hiện đại để xác định sản lượng, cường lực khai thác bền vững tối đa trong lĩnh vực khai thác thuỷ sản, phương pháp xác định số lượng tàu thực tế hoạt động trong vùng biển nghiên cứu. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn - Giúp địa phương có cơ sở khoa học để quy hoạch nghề khai thác thủy sản, sắp xếp cơ cấu nghề nghiệp, tổ chức quản lý khai thác thủy sản hợp lý trong VVP. - Tổ chức, quản lý có hệ thống các hoạt động nghề cá để đem lại hiệu quả và bền vững. - Khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững cung cấp nguồn thức ăn và sinh kế ổn định lâu dài, góp phần xóa đói giảm nghèo cho dân cư sống tại khu vực vịnh Vân Phong. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Đặc điểm tự nhiên vịnh Vân Phong 1.1.1 Vị trí địa lý Vịnh Vân Phong (VVP) là vịnh nửa kín nằm giới hạn trong phạm vi 12028'- 12050'N và 109010'-109030'E. Vịnh cách Nha Trang về phía Bắc hơn 30 km theo đường chim bay, 60 km đường bộ và 40 hải lý theo đường biển. Phía Tây VVP là phần kéo dài của dãy Trường Sơn, cửa vịnh nằm ở phía Đông Nam rộng 17 km thông ra biển Đông. Phía Đông Bắc là bán đảo Hòn Gốm gồm các dãy núi nhỏ và cồn cát kéo dài. Nằm giữa bán đảo Hòn Gốm, Hòn Lớn và đảo Cổ Cò là lạch Cổ Cò có chiều rộng 200 m có độ sâu trung bình 25 m [22,27]. Diện tích mặt nước vùng vịnh khoảng 80.000 ha, nằm trên địa giới hành chính của huyện Vạn Ninh và thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Khu vực này có hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu và kín gió và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, khu hệ sinh vật đáy ở biển nông ven bờ [32]. Toàn bộ khu vực VVP được chia thành 7 khu vực chức năng chính theo các quyết định số 92/2006/QĐ-TTg, 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [11,15]: - Khu vực 1: Trung tâm bán đảo Hòn Gốm và trên đảo Hòn Lớn - Khu vực 2: Tuần Lễ - Hòn Ngang - Khu vực 3: Từ Tu Bông đến phía Nam đèo Cổ Mã - Khu vực 4: Thị trấn Vạn Giã và vùng phụ cận - Khu vực 5: Đông Bắc Ninh Hòa và Lạc An - Khu vực 6: Dốc Lết - Khu vực 7: Khu vực phía Đông và Đông Bắc Hòn Hèo 1.1.2 Đặc điểm địa hình ven bờ và đáy biển 1.1.2.1 Đặc điểm địa hình ven bờ Vùng ven bờ vịnh Vân Phong có đặc điểm địa hình khá đặc biệt: hầu như toàn bộ dải bờ phía bắc, phía tây, phía nam của vịnh bị che chắn bởi các dãy núi có độ cao trung bình 700m. Các sông bắt nguồn từ các dãy núi này đổ ra vịnh Vân Phong đều có phương tây bắc - đông nam, ngắn, dốc và lưu lượng biến đổi mạnh theo mùa (lũ vào mùa mưa và khô kiệt vào mùa khô) [22]. Do sự có mặt của bán đảo Hòn Gốm ở phía đông bắc, núi Tiên Du ở phía nam cùng với bán đảo Hòn Khói, đảo Hòn Lớn, về mặt hình thái tổng thể vịnh Vân Phong thực tế được cấu tạo bởi ba phần [27]: - Phần vụng Bến Gỏi, độ sâu < 20m - Phần vụng Lạch Cổ Cò và Cửa Bé, độ sâu < 20m - Phần vịnh Vân Phong, độ sâu 20-30m 1.1.2.2 Đặc điểm địa hình đáy vịnh Dựa vào hình thái, độ dốc và các mặt cắt địa hình, có thể phân đáy biển vịnh Vân Phong ra ba phần tương ứng với đáy vụng Bến Gỏi, đáy vịnh Vân Phong và đáy lạch 5 Cổ Cò - Cửa Bé. Ranh giới phân định đáy vịnh Vân Phong và đáy vụng Bến Gỏi là dãy đồi ngầm, bãi cạn và đảo kéo dài theo hướng vĩ tuyến. Địa hình vụng Bến Gỏi nhìn chung không phức tạp lắm, chỉ những nơi san hô phát triển, đáy vụng mới có sự gồ ghề, lồi lõm. Độ sâu lớn nhất trong vụng đạt 18m. Đặc điểm nổi bật và khác biệt với các thành phần đáy khác là sự phân bố các đường đẳng sâu theo một khoảng cách tương đối đồng đều, gần như song song với đường bờ. Do sự có mặt của các đảo Hòn Bịp, Hòn Mạo, Hòn Được, đáy vụng có thể phân ra 2 phần dưới dạng hai rãnh máng. Một từ bờ tây ra đến dãy đảo và rãnh kia từ đáy đảo đến bờ phía đông vụng. Đáy của các rãnh này bằng phẳng, hai bên bờ có độ dốc lớn. Nhìn toàn cục, đáy vụng Bến Gỏi có độ sâu tăng dần từ bờ ra giữa và đỉnh ra cửa . Địa hình đáy vịnh Vân Phong hoàn toàn khác với địa hình đáy vụng Bến Gỏi. Hình thái đáy vịnh tương đối bằng phẳng tạo thành một máng lớn, lòng máng thoải, độ dốc nghiêng dần về phía cửa vịnh. Nét đặc trưng của bờ mặt đáy vịnh được thể hiện rõ ràng trong sự phân bố các đường đẳng sâu và độ dốc đáy. Các đường đẳng sâu có dạng ngoằn nghèo, uốn lượn, phân khoảng không đều. Ở phía tây, chúng dày xít và gần song song với đường bờ, ở phía đông các đường đẳng sâu giãn ra, mức độ ngoằn nghèo, uốn lượn cũng tăng lên rõ rệt. Độ sâu tăng dần từ đỉnh ra cửa. Do đặc điểm này cùng với hiện trạng bề mặt địa hình và độ dốc cho thấy có sự giao lưu của khối nước thuộc vụng Bến Gỏi chủ yếu qua lạch Cổ Cò - Cửa Bé . Địa hình đáy lạch Cổ Cò, Cửa Bé được tạo ra do sự có mặt của đảo Hòn Lớn và bán đảo Hòn Gốm. Địa hình đáy ở đây rất đơn giản: độ sâu tăng từ hai bờ lạch ra giữa dòng. Trắc diện ngang hình chữ V với độ sâu lớn nhất đạt hơn > 20m. Do kích thước hẹp, tốc độ lưu thông nước trong lạch lớn nên đáy lạch ít có khả năng tích tụ vật liệu mới. 1.2 Nguồn lợi thủy sản ở vịnh Vân Phong Theo kết quả nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang thì tại Vịnh có các loại hình sinh thái phong phú, khác nhau ở dưới biển, ven bờ, cửa sông và các đảo, điển hình là loại hình sinh thái đáy cứng phủ bọc bởi san hô và các vùng đáy mềm bùn cát có năng suất sinh học cao. Một trong các hệ sinh thái đặc trưng của vịnh Vân Phong là rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Các hệ sinh thái này góp phần quan trọng làm nên tính đa dạng sinh học trong vịnh. Nhờ lớp phủ thực vật của đất ngập nước, sự cân bằng giữa O2 và CO2 trong khí quyển khiến vi khí hậu địa phương được ổn định đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa; làm giảm sức gió của bão và bào mòn đất của dòng chảy mặt và được coi như “bể lọc” tự nhiên, nó có tác dụng giữ lại những chất lắng đọng và chất độc. Ngoài ra khu vực này là nơi trú ngụ, kiếm ăn của các loài thủy sản có giá trị kinh tế, đồng thời là nơi cung cấp nguồn giống quan trọng phục vụ cho nghề nuôi trồng thủy sản [27]. Kết quả điều tra, nghiên cứu về tính đa dạng loài của nguồn lợi cá khai thác ở VVP của Trần Thị Hồng Hoa và nhóm nghiên cứu [19] cho thấy: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống, chủ yếu là nhóm cá đáy ven bờ và nhóm cá rạn san hô (283 loài, chiếm 80,63%), nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%). Bộ cá vược (Perciformes) gồm 50 họ (chiếm 60,68%) với sự ưu thế là họ cá khế (Carangidae) có 19 loài. Trong số 351 loài cá khảo sát được, có 68 loài có giá trị kinh tế như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá trích, cá đối, cá phèn, cá nhồngTrong 5 nghề khai thác chính ở VVP, nghề giã cào đánh bắt được 237 loài, nghề lặn: 140 loài, lưới rạn: 158 loài, lưới giũ: 12 loài và lưới vây: 47 loài. Số lượng loài khai thác trong vụ cá Nam (342 loài, chiếm 97,4%) cao hơn so với vụ cá Bắc (269 loài, chiếm 76,6%) [19]. 6 1.3 Một số hệ sinh thái đặc trưng trong vịnh Vân Phong 1.3.1 Hệ sinh thái rạn san hô Tổng hợp kết quả điều tra, nghiên cứu về phân ... vi phạm vào các khu vực cấm, không xảy ra xung đột ngư trường giữa các nghề ở VVP. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp phân vùng khai thác phù hợp với các nghề khai thác trong VVP. 3.4.5.2 Cơ sở đề xuất a. Căn cứ pháp lý - Quyết định số 1445/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: Hoàn thành việc quy hoạch các vùng cấm khai thác, vùng cấm khai thác có thời hạn; công bố danh mục các loại nghề cấm, đối tượng cấm khai thác. Thực hiện nghiêm ngặt các quy định về khai thác theo mùa vụ; nghiêm cấm khai thác trong mùa sinh sản; nghiêm cấm sử dụng các dụng cụ khai thác hủy hoại môi trường và nguồn lợi thủy sản. - Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 17/3/2014 về việc phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà đến năm 2030. - Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Khánh Hoà giai đoạn 2015 có tính đến 2020 [28] xác định: Khoanh vùng và tập trung bảo vệ các vùng cấm khai thác, khu bảo tồn, bãi san hô đá ngầm, các bãi đẻ tự nhiên của các loài thuỷ sản, bảo vệ các loài hải sản nằm trong danh sách quý hiếm hạn chế khai thác, bảo vệ môi trường sinh thái các vùng nước hải sản. b. Căn cứ thực trạng - Căn cứ vào thực trạng KTTTS trong VVP đã phân tích ở các mục 3.3, 3.4.1, 3.4.2, 3.4.3 và mục 3.4.4. - Từ kết quả khảo sát vùng hoạt động của một số nghề KTTS chủ yếu trong VVP (phụ lục 5) được thể hiện ở bảng 3.47. Từ bảng 3.47 và Phụ lục 5 nhận thấy: + Nghề lưới kéo và te, xiệp có phạm vi hoạt động lớn nhất so với các nghề khai thác khác ở VVP - chiếm tỷ lệ 51,34% tổng diện tích vùng hoạt động của các nghề. Nghề lưới vây chiếm tỷ lệ 16,82%, nghề lưới rê chiếm tỷ lệ 16,03% tổng diện tích vùng hoạt động của các nghề khai thác trong VVP. + Có sự chồng lấn, xung đột vùng khai thác giữa các nghề cùng KTTS ở VVP. + Mật độ tàu thuyền KTTS ở VVP tính trên 1 đơn vị diện tích vùng biển được thể hiện ở bảng 3.48. Từ bảng 3.48 nhận thấy: mật độ tàu thuyền (tàu/km2) KTTS ở VVP hiện nay cao gấp 3,23 lần so với mật độ tàu thuyền hoạt động ở vùng biển Việt Nam (theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [13]). 3.4.5.3 Nội dung giải pháp Trên cơ sở những phân tích, đánh giá ở phần thực trạng và nội dung của các giải pháp đã đề xuất về: điều chỉnh hoạt động KTTS, điều chỉnh cơ cấu nghề KTTS, xử lý số tàu thuyền dôi dư sau khi điều cơ cấu nghề và giải pháp phục hồi, tái tạo nơi cư trú 51 của các loài hải sản trong VVP, đề tài xin đề xuất giải pháp phân vùng khai thác của một số nghề ở VVP như sau: a. Nguyên tắc phân vùng - Vùng phía trong đường giới hạn A1(12°37'15,1"N, 109°18'11,7"E)-A2 (12°35'08,1"N, 109°14'44,8"E) là vùng có khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, nhiều hệ thống rừng ngập mặn, san hô, vì vậy không tiến hành phân vùng khai thác ở khu vực này. Khu vực này phục vụ cho công tác bảo tồn, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. - Chỉ tiến hành phân vùng khai thác ở khu vực phía ngoài đường giới hạn A1A2 cho đến cửa VVP. - Không đưa vào phân vùng đối với nghề lưới kéo, te, xiệp, nghề lặn vì đây là các nghề cấm và đã được đề xuất giải pháp xử lý ở mục 3.4.1, 3.4.2 và mục 3.4.3. b. Đề xuất phân vùng *. Nghề lưới vây: Theo phân tích tại các mục 3.4.1, 3.4.2, 3.4.3 đối với các tàu thuyền đủ điều kiện nâng cấp, cải hoán lên tàu có công suất lớn hơn sẽ chuyển sang đánh bắt ở vùng lộng và vùng khơi. Vì vậy, đề tài đề xuất là giảm diện tích vùng khai thác truyền thống của nghề lưới vây ven bờ như hiện nay xuống và giới hạn phạm vi khai thác là từ 20m nước trở ra. Vùng khai thác của nghề lưới vây - vùng V (diện tích là 68,05km2), bao gồm cả ngư trường truyền thống. Vùng V được giới hạn bởi 5 điểm B1, B2, B3, B4, B5. *. Nghề lưới rê: Từ kết quả khảo sát vùng hoạt động của các nghề ở VVP (Phụ lục 5) cho thấy, nghề lưới rê tập trung khai thác ở 3 ngư trường chính (xã Vạn Hưng, Ninh Thuỷ-Ninh Hải, Ninh Phước). Điều đáng nói là ngư trường xã Vạn Hưng có khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, tuy nhiên người dân vẫn khai thác nghề lưới rê đáy (lưới gõ) trong khu vực bảo tồn làm ảnh hưởng lớn đến các rạn san hô ở đây. Theo phân tích tại các mục 3.4.1, 3.4.2, 3.4.3 đối với các tàu thuyền đủ điều kiện nâng cấp, cải hoán lên tàu có công suất lớn hơn sẽ chuyển sang đánh bắt ở ngư trường Ninh Thuỷ-Ninh Hải, Ninh Phước hoặc đánh bắt ở vùng lộng và vùng khơi. Đối với số tàu thuyền còn lại đề tài đề xuất diện tích vùng khai thác R1, R2, cấm khai thác nghề lưới rê ở ngư trường xã Vạn Hưng (vùng bảo tồn) và yêu cầu ngư dân chuyển sang khai thác ở vùng R1, R2, ở phạm vi từ 10m nước trở ra. Vùng R1 (diện tích là 27,83km2; giới hạn bởi các điểm B6, B7, B8, B9, B4), vùng R2 (diện tích là 29,69km2, giới hạn bởi các điểm B14, B15, B16, B17, B4). *. Nghề câu: Để đảm bảo việc phân vùng khai thác hợp lý giữa các nghề và tránh xung đột ngư trường khai thác của các nghề, đề tài đề xuất vùng khai thác của nghề câu từ 5m nước trở ra. Vùng khai thác mới của nghề câu là C1 (diện tích là 12,73km2, gồm các điểm B7, B10, B11, B12, B13, B9, B8), vùng C2 (diện tích là 13,50km2, gồm các điểm B15, B18, B19, B20, B21, B17, B16). Tổng hợp kết quả phân vùng khai thác của một số nghề ở VVP được thể hiện trong Phụ lục 6. 52 3.4.6 Đánh giá tính khả thi của các giải pháp Trước tiên là phải có biện pháp tuyên truyền giáo dục để ngư dân, chủ tàu thấy rõ trách nhiệm, quyền hạn của mình khu vực nào được đánh cá, khu vực nào cấm hoạt động nghề gì, nghề nào cấm...là việc làm cần thiết và khả thi. Khi người dân hiểu, thấy rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình thì họ mới đồng tình ủng hộ và còn là cộng tác viên tích cực đối với các bộ phận quản lý nhà nước về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Tiếp theo là việc điều chỉnh hoạt động khai thác của các tàu lưới kéo và tàu có công suất ≥20CV, cơ cấu lại các nghề khai thác và đã được Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp lý [7,12,13]. Bên cạnh đó UBND tỉnh Khánh Hoà cũng đã ban hành các văn bản để triển khai các quy định của Nhà nước về quản lý hoạt động khai thác trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà và quy hoạch ngành thuỷ sản Khánh Hoà đến 2020 [28,35]. Việc làm này mang tính đồng bộ đối với các địa phương có biển. Luận án đề xuất điều chỉnh hoạt động khai thác của các tàu có công suất ≥20CV, tàu lưới kéo là phù hợp với chủ trương chung và có tính khả thi. Khi nghề lưới kéo không được hoạt động trong vùng biển ven bờ thì những tàu lưới kéo lắp máy dưới 20CV cũng phải chấp nhận. Tuy nhiên, những ngư dân này chuyển đổi nghề sang nghề khác là việc làm không dễ khi mà họ đã làm nghề này gần cả cuộc đời. Mặt khác những ngư dân này hầu hết là nghèo, trình độ học vấn thấp thì việc chuyển đổi nghề lại càng khó hơn. Do vậy, đồng thời với tuyên truyền giáo dục để người dân hiểu thì phải có biện pháp hỗ trợ cụ thể về tài chính, hướng nghiệp,...Bên cạnh đó, ở vịnh Vân Phong ngành du lịch và nghề nuôi biển đang phát triển thì việc chuyển đổi các chủ tàu (như đã phân tích ở mục 3.4.1 và 3.4.2) này sang làm dịch vụ nuôi trồng thuỷ sản và du lịch là có tính khả thi. Giải pháp khôi phục rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm cỏ biển và phân vùng khai thác ở vùng biển VVP là phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [13], quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Khánh Hoà giai đoạn 2015 có tính đến 2020 [28] và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà đến năm 2030 [15]. Tóm lại, với những nội dung đã phân tích như trên các giải pháp mà luận án đề xuất là có tính khả thi. 3.4.7 Phân tích kết quả đạt được của các giải pháp Nếu các giải pháp trên được thực hiện tốt sẽ mang lại một số hiệu quả sau: - Khi tàu có công suất ≥20CV, tàu lưới kéo không còn hoạt động ở VVP thì cá con, cá non, tôm con, mực nhỏ...không bị khai thác như trước đây. Những loài hải sản non này sẽ là nguồn bổ sung, cung cấp nguồn lợi cho VVP, vùng lộng, vùng khơi. - Nếu giải quyết thoả đáng vấn đề số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề KTTS ở VVP thì sẽ đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội đối với người dân xung quanh vịnh. Khi đó người dân sẽ tích cực tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản ở VVP. - Giảm được cường lực khai thác tại VVP sẽ giảm được ảnh hưởng của hoạt động khai thác đến sự phân bố đàn cá nên quần đàn có điều kiện tái tạo, phát triển và bảo toàn, tăng hiệu quả khai thác. - Không vi phạm qui định về kích thước cá khai thác (đặc biệt là cá trong thời kỳ sinh sản) nên sẽ bảo vệ được nguồn lợi. 53 - Đáy biển không bị phá hủy, các loài động thực vật đáy (san hô, cỏ biển, rong biển) và rừng ngập mặn không bị xâm hại, nơi trú ẩn của các loài hải sản được phục hồi. Các loài hải sản có nơi để trú ẩn, sinh sống và phát triển. - Trồng thêm rừng ngập mặn, phục hồi các rạn san hô và cỏ biển ở VVP cũng có nghĩa là mở rộng nơi sinh sản, trú ẩn của các loài hải sản. Điều này sẽ dẫn đến nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh được bảo vệ, bổ sung liên tục và phát triển bền vững. - Lực lượng thanh tra thuỷ sản có đủ phương tiện và kinh phí hoạt động thì công tác tuần tra, kiểm soát ngư trường sẽ được tiến hành thường xuyên hơn, góp phần vào công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở VVP. - Khi đã phân vùng khai thác các nghề ở VVP và duy trì số lượng tàu khai thác hợp lý, đồng thời kiểm tra và giám sát được hoạt động khai thác của đội tàu, sẽ đảm bảo được cường lực khai thác hợp lý với trữ lượng khai thác cho phép, bảo vệ được nguồn lợi tại vùng biển. - Khi chủ tàu, người dân nhận thức được trách nhiệm của mình trong vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản thì những vi phạm về pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản sẽ bị loại bỏ dần. Khi đã thấy rõ trách nhiệm của mình thì chính người dân sẽ trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản của các tàu thuyền khác KTTS ở VVP. 54 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ KẾT LUẬN Từ các kết quả nghiên cứu trên, cho phép tác giả đưa ra một số kết luận sau: 1. Thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở vịnh Vân Phong đã và đang vi phạm các quy định của Nhà nước (Nghị định số 33/2010/NĐ-CP, Thông tư số 62/2008/TT-BNN) cũng như của địa phương (Quyết định số 05/2014/QĐ-UBND) về vùng hoạt động của tàu thuyền, các nghề cấm (tàu lưới kéo-453 chiếc, tàu có công suất ≥20CV-487 chiếc). Sự gia tăng số lượng tàu thuyền khai thác trong vịnh Vân Phong giai đoạn 2008-2015 làm cho nguồn lợi ở vịnh Vân Phong ngày càng suy giảm. 2. Cường lực khai thác bền vững tối đa tại vịnh Vân Phong là 1.263 tàu, sản lượng khai thác bền vững tối đa là 8.045 tấn. Trong đó, nghề lưới kéo là 362 tàu, nghề lưới vây là 248 tàu, nghề lưới rê là 137 tàu, nghề câu 199 tàu và nhóm nghề khác là 317 tàu. 3. Cường lực khai thác ở vịnh Vân Phong hiện nay đã vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa 33,02% tương ứng với 417 tàu. Trong đó, nghề lưới kéo có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa 91 tàu, nghề lưới vây có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa là 78 tàu, nghề lưới rê có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa là 91 tàu, nghề câu có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa là 78 tàu và nhóm nghề khác có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa là 79 tàu. 4. Chính quyền địa phương tại các xã, phường quanh vịnh Vân Phong chưa quan tâm đúng mức trong công tác tuyên truyền giáo dục về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, cũng như kiên quyết ngăn chặn và xử lý các hành vi phá hoại nguồn lợi thủy sản. 5. Đề tài đã xây dựng được 5 giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân Phong: - Giải pháp 1: Điều chỉnh hoạt động khai thác thuỷ sản thông qua ngăn ngừa hoạt động của tàu lưới kéo, tàu có công suất ≥20CV trong vùng biển vịnh Vân Phong bằng cách điều chỉnh tổng cường lực nhỏ hơn mức cường lực khai thác hợp lý và biện pháp tuyên truyền giáo dục, chủ tàu đăng ký vùng hoạt động cho tàu của mình, chủ tàu cam kết thực hiện đúng bản đăng ký và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. - Giải pháp 2: Điều chỉnh lại cơ cấu các nghề khai thác bằng cách cắt giảm 220 tàu lưới kéo có công suất dưới 20CV và phân bổ số tàu này cho các nghề nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu và nghề khác. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất 2 bước để thực hiện việc cắt giảm các tàu thuyền làm nghề lưới kéo hoạt động trong vịnh Vân Phong (là nghề đã bị cấm hoạt động trong vịnh Vân Phong theo quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà). - Giải pháp 3: Xử lý đối với số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề khai thác bằng cách chuyển đổi số tàu thuyền nêu trên sang nghề khác ít gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản ở vùng biển vịnh Vân Phong hoặc cải hoán, nâng cấp vỏ tàu, máy tàu để khai thác tại vùng lộng và vùng khơi. - Giải pháp 4: Phục hồi, tái tạo một số nơi cư trú điển hình của các loài hải sản bằng cách: trồng mới, trồng bổ sung để phục hồi các khu vực rạn san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn đã bị tàn pháp ở vịnh Vân Phong; giáo dục tuyên truyền để người dân 55 xung quanh vịnh Vân Phong thấy rõ tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô đối với môi trường và nguồn lợi thuỷ sản. - Giải pháp 5: Đã xây dựng được phân vùng khai thác thuỷ sản với tổng diện tích mặt nước là 151,8 km2. Trong đó vùng khai thác của nghề lưới vây - 68,05 km2; nghề lưới rê - 57,52 km2 và nghề câu - 26,23km2. KHUYẾN NGHỊ Nghiên cứu đánh giá tác động của các các hoạt động du lịch, cảng biển, nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, hoạt động công nghiệp và nguồn nước thải từ các khu dân cư đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung về nguồn lợi thuỷ sản, trữ lượng của vùng biển vịnh Vân Phong. Xây dựng quy hoạch thuỷ sản vịnh Vân Phong và đưa kết quả nghiên cứu phân vùng khai thác vào quy hoạch chi tiết về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. 56 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Vũ Kế Nghiệp, Phan Trọng Huyến, Trần Đức Phú (2015), “Thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, 2015 (3), Trường Đại học Nha Trang, tr. 32-35. 2. Phan Trọng Huyến, Vũ Kế Nghiệp, Nguyễn Thị Hoa Hồng (2016), “Kết quả nghiên cứu xây dựng nội dung khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, 2016 (2), Trường Đại học Nha Trang, tr. 25-31. 3. Vũ Kế Nghiệp, Phan Trọng Huyến, Trần Đức Phú (2016), “Kết quả nghiên cứu về cường lực và sản lượng khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản vùng biển vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, 2016 (4), Trường Đại học Nha Trang, tr. 79-84.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_bao_ve_va_phat_t.pdf