Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà

Vùng biển vịnh Vân Phong (VVP) là nơi có nhiều nguồn lợi thủy sản đa dạng và

phong phú với nhiều hệ sinh thái, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đây là nơi sinh

sản, nuôi dưỡng ấu trùng, cá con để cung cấp nguồn lợi cho vùng biển ven bờ, vùng

lộng, vùng khơi [22,27].

Nguồn lợi cá ở VVP đa dạng về chủng loại: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ

và 215 giống; nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô có 283 loài, nhóm cá nổi có 68

loài. Trong đó, loài có giá trị kinh tế là 68 loài như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá

trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng [19]. Các rạn san hô trong VVP không còn duy trì ở

tình trạng tốt: độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), san hô cứng

chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%) [26].

Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển, phổ biến và chiếm ưu thế là loài

cỏ lá dừa, cỏ vích. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoà và nhóm

nghiên cứu thì diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã

Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng) tiếp tục suy giảm giai đoạn 2007-2013 [18].

Diện tích rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp

phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy

sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng

17,7 ha). Diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ (năm 2001) có khoảng 15 ha, đến năm

2009 chỉ còn lại 8,83 ha và tiếp tục thu hẹp diện tích tính đến tháng 6/2013 do người

dân phá rừng để làm nhà, nuôi trồng thuỷ sản [18].

Qua khảo sát sơ bộ trong nhiều năm qua VVP là ngư trường thuận lợi cho các hộ

dân sống xung quanh VVP với tổng số tàu thuyền là 1068 tàu của các nghề lưới kéo,

lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề khác. Điều này làm cho áp lực khai thác đã

vượt 3,23 lần so với quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến 2020 [13]. Đặc biệt, ở đây

có những nghề khai thác gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản, phá hoại rạn san hô như

nghề khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị

định 33/2010/NĐ-CP [12], Thông tư 02/2006/TT-BTS [8] và quyết định 05/2014/QĐ-

UBND [35] đã quy định cấm các nghề lưới kéo, các tàu có công suất ≥20CV hoạt

động trong VVP nhưng các tàu này vẫn ngang nhiên hoạt động với số lượng lớn ở

VVP.

Với thực trạng đó nguồn lợi thuỷ sản ở VVP đang có dấu hiệu cạn kiệt, các nơi

trú ẩn (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biện) đang bị phá huỷ và diện tích đang bị

thu hẹp dần.

Từ những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả

bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà" là

cần thiết. Luận án tập trung vào các nội dung chính sau: thực trạng khai thác thuỷ sản

tại vịnh Vân Phong; những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân

Phong; giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong

pdf 58 trang dienloan 8260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà

Tóm tắt Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 
------------------------------------- 
VŨ KẾ NGHIỆP 
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ 
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN 
TẠI VỊNH VÂN PHONG TỈNH KHÁNH HOÀ 
Ngành đào tạo: Kỹ thuật Khai thác thuỷ sản 
Mã số: 62620304 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ 
KHÁNH HOÀ - 2017 
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Nha Trang 
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phan Trọng Huyến 
2. TS. Trần Đức Phú 
Phản biện 1: TS. Hoàng Hoa Hồng 
Phản biện 2: TS. Nguyễn Long 
Phản biện 3: TS. Thái Văn Ngạn 
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Trường 
Đại học Nha Trang vào hồi ngày tháng năm 2017. 
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Trường Đại học Nha 
Trang 
1 
TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 
Đề tài luận án: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại 
Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà 
Ngành: Kỹ thuật khai thác thủy sản 
Mã số: 62620304 
Nghiên cứu sinh: Vũ Kế Nghiệp 
Khoá: 2010 
Người hướng dẫn: 1. TS. Phan Trọng Huyến 
 2. TS. Trần Đức Phú 
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nha Trang 
Nội dung: 
1. Luận án đã xây dựng bộ dữ liệu toàn diện về khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong 
bao gồm thực trạng số lượng tàu thuyền các nghề, cơ cấu các nghề. Đặc biệt, những nghề gây 
hại đến nguồn lợi như là: khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc, nghề lưới kéo và 
các tàu có công suất ≥ 20CV mặc dù đã bị cấm (theo Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 
31/3/2010 của Chính phủ và quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND 
tỉnh Khánh Hoà) nhưng vẫn hoạt động khai thác thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 
2. Luận án đã sử dụng phương pháp hiện đại để tính toán cường lực, sản lượng khai thác 
bền vững tối đa cho vùng biển vịnh Vân Phong. Đã xác định tương đối chính xác cường lực, 
sản lượng khai thác tại vịnh Vân Phong hiện nay vượt quá ngưỡng cường lực và sản lượng 
khai thác bền vững tối đa. 
3. Luận án đã phân tích, đánh giá toàn diện các nguyên nhân làm cho nguồn lợi thuỷ sản 
ở vịnh Vân Phong ngày càng cạn kiệt. Từ đó, đã đề ra năm nhóm giải pháp nhằm hạn chế 
những nguy cơ trên. 
- Giải pháp 1: Điều chỉnh hoạt động khai thác thuỷ sản thông qua ngăn ngừa hoạt động 
của tàu lưới kéo, tàu có công suất ≥20CV trong vùng biển vịnh Vân Phong bằng cách điều 
chỉnh tổng cường lực nhỏ hơn mức cường lực khai thác hợp lý và biện pháp tuyên truyền giáo 
dục, chủ tàu đăng ký vùng hoạt động cho tàu của mình, chủ tàu cam kết thực hiện đúng bản 
đăng ký và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. 
- Giải pháp 2: Điều chỉnh lại cơ cấu các nghề khai thác bằng cách cắt giảm 220 tàu lưới 
kéo có công suất dưới 20CV và phân bổ số tàu này cho các nghề nghề lưới vây, nghề lưới rê, 
nghề câu và nghề khác. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất 2 bước để thực hiện việc cắt giảm 
các tàu thuyền làm nghề lưới kéo hoạt động trong vịnh Vân Phong (là nghề đã bị cấm hoạt 
động trong vịnh Vân Phong theo quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của 
UBND tỉnh Khánh Hoà). 
- Giải pháp 3: Xử lý đối với số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề khai thác 
bằng cách chuyển đổi số tàu thuyền nêu trên sang nghề khác ít gây hại đối với nguồn lợi thuỷ 
sản ở vùng biển vịnh Vân Phong hoặc cải hoán, nâng cấp vỏ tàu, máy tàu để khai thác tại 
vùng lộng và vùng khơi. 
- Giải pháp 4: Phục hồi, tái tạo một số nơi cư trú điển hình của các loài hải sản bằng 
cách: trồng mới, trồng bổ sung để phục hồi các khu vực rạn san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn 
đã bị tàn phá ở vịnh Vân Phong; giáo dục tuyên truyền để người dân xung quanh vịnh Vân 
Phong thấy rõ tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô đối với môi 
trường và nguồn lợi thuỷ sản. 
- Giải pháp 5: Đã xây dựng được phân vùng khai thác thuỷ sản với tổng diện tích mặt 
nước là 151,8 km2. Trong đó vùng khai thác của nghề lưới vây - 68,05 km2; nghề lưới rê - 
57,52 km2 và nghề câu - 26,23km2. 
Người hướng dẫn 
TS. Phan Trọng Huyến TS. Trần Đức Phú 
Nghiên cứu sinh 
Vũ Kế Nghiệp 
2 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do lựa chọn đề tài 
Vùng biển vịnh Vân Phong (VVP) là nơi có nhiều nguồn lợi thủy sản đa dạng và 
phong phú với nhiều hệ sinh thái, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đây là nơi sinh 
sản, nuôi dưỡng ấu trùng, cá con để cung cấp nguồn lợi cho vùng biển ven bờ, vùng 
lộng, vùng khơi [22,27]. 
Nguồn lợi cá ở VVP đa dạng về chủng loại: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ 
và 215 giống; nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô có 283 loài, nhóm cá nổi có 68 
loài. Trong đó, loài có giá trị kinh tế là 68 loài như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá 
trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng[19]. Các rạn san hô trong VVP không còn duy trì ở 
tình trạng tốt: độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), san hô cứng 
chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%) [26]. 
 Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển, phổ biến và chiếm ưu thế là loài 
cỏ lá dừa, cỏ vích. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoà và nhóm 
nghiên cứu thì diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã 
Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng) tiếp tục suy giảm giai đoạn 2007-2013 [18]. 
Diện tích rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp 
phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy 
sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng 
17,7 ha). Diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ (năm 2001) có khoảng 15 ha, đến năm 
2009 chỉ còn lại 8,83 ha và tiếp tục thu hẹp diện tích tính đến tháng 6/2013 do người 
dân phá rừng để làm nhà, nuôi trồng thuỷ sản [18]. 
Qua khảo sát sơ bộ trong nhiều năm qua VVP là ngư trường thuận lợi cho các hộ 
dân sống xung quanh VVP với tổng số tàu thuyền là 1068 tàu của các nghề lưới kéo, 
lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề khác. Điều này làm cho áp lực khai thác đã 
vượt 3,23 lần so với quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến 2020 [13]. Đặc biệt, ở đây 
có những nghề khai thác gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản, phá hoại rạn san hô như 
nghề khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị 
định 33/2010/NĐ-CP [12], Thông tư 02/2006/TT-BTS [8] và quyết định 05/2014/QĐ-
UBND [35] đã quy định cấm các nghề lưới kéo, các tàu có công suất ≥20CV hoạt 
động trong VVP nhưng các tàu này vẫn ngang nhiên hoạt động với số lượng lớn ở 
VVP. 
Với thực trạng đó nguồn lợi thuỷ sản ở VVP đang có dấu hiệu cạn kiệt, các nơi 
trú ẩn (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biện) đang bị phá huỷ và diện tích đang bị 
thu hẹp dần. 
Từ những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả 
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà" là 
cần thiết. Luận án tập trung vào các nội dung chính sau: thực trạng khai thác thuỷ sản 
tại vịnh Vân Phong; những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân 
Phong; giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 
2. Mục tiêu của luận án 
2.1. Mục tiêu chung: Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 
2.2. Mục tiêu cụ thể: 
- Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở vịnh Vân Phong. 
- Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân 
Phong. 
3 
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại 
vịnh Vân Phong. 
3. Đối tượng nghiên cứu 
Hoạt động khai thác thủy sản, hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản 
tại vịnh Vân Phong. 
4. Phạm vi nghiên cứu 
- Không gian: 
+ Các địa phương hoạt động khai thác thuỷ sản, cộng đồng ngư dân các xã sống 
xung quanh vịnh Vân Phong (Vạn Giã, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Thọ, Vạn Lương, 
Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Hưng của huyện Vạn Ninh; Ninh Hải và Ninh Thuỷ của 
huyện Ninh Hoà). 
+ Vùng biển vịnh Vân Phong 
- Thời gian: 2010-2015 
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 
5.1. Ý nghĩa khoa học 
- Bổ sung nguồn dữ liệu về thực trạng cho lĩnh vực khoa học khai thác thuỷ sản 
Việt Nam. 
- Bổ sung phương pháp khoa học hiện đại để xác định sản lượng, cường lực khai 
thác bền vững tối đa trong lĩnh vực khai thác thuỷ sản, phương pháp xác định số lượng 
tàu thực tế hoạt động trong vùng biển nghiên cứu. 
5.2. Ý nghĩa thực tiễn 
- Giúp địa phương có cơ sở khoa học để quy hoạch nghề khai thác thủy sản, sắp 
xếp cơ cấu nghề nghiệp, tổ chức quản lý khai thác thủy sản hợp lý trong VVP. 
- Tổ chức, quản lý có hệ thống các hoạt động nghề cá để đem lại hiệu quả và bền 
vững. 
- Khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững cung cấp 
nguồn thức ăn và sinh kế ổn định lâu dài, góp phần xóa đói giảm nghèo cho dân cư 
sống tại khu vực vịnh Vân Phong. 
4 
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
1.1 Đặc điểm tự nhiên vịnh Vân Phong 
1.1.1 Vị trí địa lý 
Vịnh Vân Phong (VVP) là vịnh nửa kín nằm giới hạn trong phạm vi 12028'-
12050'N và 109010'-109030'E. Vịnh cách Nha Trang về phía Bắc hơn 30 km theo 
đường chim bay, 60 km đường bộ và 40 hải lý theo đường biển. Phía Tây VVP là phần 
kéo dài của dãy Trường Sơn, cửa vịnh nằm ở phía Đông Nam rộng 17 km thông ra 
biển Đông. Phía Đông Bắc là bán đảo Hòn Gốm gồm các dãy núi nhỏ và cồn cát kéo 
dài. Nằm giữa bán đảo Hòn Gốm, Hòn Lớn và đảo Cổ Cò là lạch Cổ Cò có chiều rộng 
200 m có độ sâu trung bình 25 m [22,27]. Diện tích mặt nước vùng vịnh khoảng 
80.000 ha, nằm trên địa giới hành chính của huyện Vạn Ninh và thị xã Ninh Hòa, tỉnh 
Khánh Hòa. Khu vực này có hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu và kín gió và là khu vực 
có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, khu hệ sinh vật đáy ở biển nông ven bờ 
[32]. 
Toàn bộ khu vực VVP được chia thành 7 khu vực chức năng chính theo các 
quyết định số 92/2006/QĐ-TTg, 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [11,15]: 
- Khu vực 1: Trung tâm bán đảo Hòn Gốm và trên đảo Hòn Lớn 
- Khu vực 2: Tuần Lễ - Hòn Ngang 
- Khu vực 3: Từ Tu Bông đến phía Nam đèo Cổ Mã 
- Khu vực 4: Thị trấn Vạn Giã và vùng phụ cận 
- Khu vực 5: Đông Bắc Ninh Hòa và Lạc An 
- Khu vực 6: Dốc Lết 
- Khu vực 7: Khu vực phía Đông và Đông Bắc Hòn Hèo 
1.1.2 Đặc điểm địa hình ven bờ và đáy biển 
1.1.2.1 Đặc điểm địa hình ven bờ 
Vùng ven bờ vịnh Vân Phong có đặc điểm địa hình khá đặc biệt: hầu như toàn bộ 
dải bờ phía bắc, phía tây, phía nam của vịnh bị che chắn bởi các dãy núi có độ cao 
trung bình 700m. Các sông bắt nguồn từ các dãy núi này đổ ra vịnh Vân Phong đều có 
phương tây bắc - đông nam, ngắn, dốc và lưu lượng biến đổi mạnh theo mùa (lũ vào 
mùa mưa và khô kiệt vào mùa khô) [22]. 
Do sự có mặt của bán đảo Hòn Gốm ở phía đông bắc, núi Tiên Du ở phía nam 
cùng với bán đảo Hòn Khói, đảo Hòn Lớn, về mặt hình thái tổng thể vịnh Vân Phong 
thực tế được cấu tạo bởi ba phần [27]: 
- Phần vụng Bến Gỏi, độ sâu < 20m 
- Phần vụng Lạch Cổ Cò và Cửa Bé, độ sâu < 20m 
- Phần vịnh Vân Phong, độ sâu 20-30m 
1.1.2.2 Đặc điểm địa hình đáy vịnh 
Dựa vào hình thái, độ dốc và các mặt cắt địa hình, có thể phân đáy biển vịnh Vân 
Phong ra ba phần tương ứng với đáy vụng Bến Gỏi, đáy vịnh Vân Phong và đáy lạch 
5 
Cổ Cò - Cửa Bé. Ranh giới phân định đáy vịnh Vân Phong và đáy vụng Bến Gỏi là 
dãy đồi ngầm, bãi cạn và đảo kéo dài theo hướng vĩ tuyến. 
Địa hình vụng Bến Gỏi nhìn chung không phức tạp lắm, chỉ những nơi san hô 
phát triển, đáy vụng mới có sự gồ ghề, lồi lõm. Độ sâu lớn nhất trong vụng đạt 18m. 
Đặc điểm nổi bật và khác biệt với các thành phần đáy khác là sự phân bố các đường 
đẳng sâu theo một khoảng cách tương đối đồng đều, gần như song song với đường bờ. 
Do sự có mặt của các đảo Hòn Bịp, Hòn Mạo, Hòn Được, đáy vụng có thể phân ra 2 
phần dưới dạng hai rãnh máng. Một từ bờ tây ra đến dãy đảo và rãnh kia từ đáy đảo 
đến bờ phía đông vụng. Đáy của các rãnh này bằng phẳng, hai bên bờ có độ dốc lớn. 
Nhìn toàn cục, đáy vụng Bến Gỏi có độ sâu tăng dần từ bờ ra giữa và đỉnh ra cửa . 
Địa hình đáy vịnh Vân Phong hoàn toàn khác với địa hình đáy vụng Bến Gỏi. 
Hình thái đáy vịnh tương đối bằng phẳng tạo thành một máng lớn, lòng máng thoải, độ 
dốc nghiêng dần về phía cửa vịnh. Nét đặc trưng của bờ mặt đáy vịnh được thể hiện rõ 
ràng trong sự phân bố các đường đẳng sâu và độ dốc đáy. Các đường đẳng sâu có dạng 
ngoằn nghèo, uốn lượn, phân khoảng không đều. Ở phía tây, chúng dày xít và gần 
song song với đường bờ, ở phía đông các đường đẳng sâu giãn ra, mức độ ngoằn 
nghèo, uốn lượn cũng tăng lên rõ rệt. Độ sâu tăng dần từ đỉnh ra cửa. Do đặc điểm này 
cùng với hiện trạng bề mặt địa hình và độ dốc cho thấy có sự giao lưu của khối nước 
thuộc vụng Bến Gỏi chủ yếu qua lạch Cổ Cò - Cửa Bé . 
Địa hình đáy lạch Cổ Cò, Cửa Bé được tạo ra do sự có mặt của đảo Hòn Lớn và 
bán đảo Hòn Gốm. Địa hình đáy ở đây rất đơn giản: độ sâu tăng từ hai bờ lạch ra giữa 
dòng. Trắc diện ngang hình chữ V với độ sâu lớn nhất đạt hơn > 20m. Do kích thước 
hẹp, tốc độ lưu thông nước trong lạch lớn nên đáy lạch ít có khả năng tích tụ vật liệu 
mới. 
1.2 Nguồn lợi thủy sản ở vịnh Vân Phong 
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang thì tại Vịnh có các 
loại hình sinh thái phong phú, khác nhau ở dưới biển, ven bờ, cửa sông và các đảo, 
điển hình là loại hình sinh thái đáy cứng phủ bọc bởi san hô và các vùng đáy mềm bùn 
cát có năng suất sinh học cao. Một trong các hệ sinh thái đặc trưng của vịnh Vân 
Phong là rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Các hệ sinh thái này góp phần quan trọng 
làm nên tính đa dạng sinh học trong vịnh. Nhờ lớp phủ thực vật của đất ngập nước, sự 
cân bằng giữa O2 và CO2 trong khí quyển khiến vi khí hậu địa phương được ổn định 
đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa; làm giảm sức gió của bão và bào mòn đất của dòng 
chảy mặt và được coi như “bể lọc” tự nhiên, nó có tác dụng giữ lại những chất lắng 
đọng và chất độc. Ngoài ra khu vực này là nơi trú ngụ, kiếm ăn của các loài thủy sản 
có giá trị kinh tế, đồng thời là nơi cung cấp nguồn giống quan trọng phục vụ cho nghề 
nuôi trồng thủy sản [27]. 
Kết quả điều tra, nghiên cứu về tính đa dạng loài của nguồn lợi cá khai thác ở 
VVP của Trần Thị Hồng Hoa và nhóm nghiên cứu [19] cho thấy: có 351 loài cá thuộc 
19 bộ, 100 họ và 215 giống, chủ yếu là nhóm cá đáy ven bờ và nhóm cá rạn san hô 
(283 loài, chiếm 80,63%), nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%). Bộ cá vược 
(Perciformes) gồm 50 họ (chiếm 60,68%) với sự ưu thế là họ cá khế (Carangidae) có 
19 loài. Trong số 351 loài cá khảo sát được, có 68 loài có giá trị kinh tế như cá thu, cá 
ngừ, cá mú, cá cơm, cá trích, cá đối, cá phèn, cá nhồngTrong 5 nghề khai thác chính 
ở VVP, nghề giã cào đánh bắt được 237 loài, nghề lặn: 140 loài, lưới rạn: 158 loài, 
lưới giũ: 12 loài và lưới vây: 47 loài. Số lượng loài khai thác trong vụ cá Nam (342 
loài, chiếm 97,4%) cao hơn so với vụ cá Bắc (269 loài, chiếm 76,6%) [19]. 
6 
1.3 Một số hệ sinh thái đặc trưng trong vịnh Vân Phong 
1.3.1 Hệ sinh thái rạn san hô 
Tổng hợp kết quả điều tra, nghiên cứu về phân  ... vi phạm vào các khu vực cấm, không xảy ra xung đột ngư trường 
giữa các nghề ở VVP. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp phân vùng khai thác phù 
hợp với các nghề khai thác trong VVP. 
3.4.5.2 Cơ sở đề xuất 
a. Căn cứ pháp lý 
- Quyết định số 1445/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc 
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 
đến năm 2030 đã xác định: Hoàn thành việc quy hoạch các vùng cấm khai thác, vùng 
cấm khai thác có thời hạn; công bố danh mục các loại nghề cấm, đối tượng cấm khai 
thác. Thực hiện nghiêm ngặt các quy định về khai thác theo mùa vụ; nghiêm cấm khai 
thác trong mùa sinh sản; nghiêm cấm sử dụng các dụng cụ khai thác hủy hoại môi 
trường và nguồn lợi thủy sản. 
- Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 17/3/2014 về việc phê duyệt Điều chỉnh quy 
hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà đến năm 2030. 
- Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản Khánh Hoà giai đoạn 2015 có 
tính đến 2020 [28] xác định: Khoanh vùng và tập trung bảo vệ các vùng cấm khai thác, 
khu bảo tồn, bãi san hô đá ngầm, các bãi đẻ tự nhiên của các loài thuỷ sản, bảo vệ các 
loài hải sản nằm trong danh sách quý hiếm hạn chế khai thác, bảo vệ môi trường sinh 
thái các vùng nước hải sản. 
b. Căn cứ thực trạng 
- Căn cứ vào thực trạng KTTTS trong VVP đã phân tích ở các mục 3.3, 3.4.1, 
3.4.2, 3.4.3 và mục 3.4.4. 
 - Từ kết quả khảo sát vùng hoạt động của một số nghề KTTS chủ yếu trong VVP 
(phụ lục 5) được thể hiện ở bảng 3.47. Từ bảng 3.47 và Phụ lục 5 nhận thấy: 
+ Nghề lưới kéo và te, xiệp có phạm vi hoạt động lớn nhất so với các nghề khai 
thác khác ở VVP - chiếm tỷ lệ 51,34% tổng diện tích vùng hoạt động của các nghề. 
Nghề lưới vây chiếm tỷ lệ 16,82%, nghề lưới rê chiếm tỷ lệ 16,03% tổng diện tích 
vùng hoạt động của các nghề khai thác trong VVP. 
+ Có sự chồng lấn, xung đột vùng khai thác giữa các nghề cùng KTTS ở VVP. 
+ Mật độ tàu thuyền KTTS ở VVP tính trên 1 đơn vị diện tích vùng biển được 
thể hiện ở bảng 3.48. Từ bảng 3.48 nhận thấy: mật độ tàu thuyền (tàu/km2) KTTS ở 
VVP hiện nay cao gấp 3,23 lần so với mật độ tàu thuyền hoạt động ở vùng biển Việt 
Nam (theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm 
nhìn đến năm 2030 [13]). 
3.4.5.3 Nội dung giải pháp 
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá ở phần thực trạng và nội dung của các giải 
pháp đã đề xuất về: điều chỉnh hoạt động KTTS, điều chỉnh cơ cấu nghề KTTS, xử lý 
số tàu thuyền dôi dư sau khi điều cơ cấu nghề và giải pháp phục hồi, tái tạo nơi cư trú 
51 
của các loài hải sản trong VVP, đề tài xin đề xuất giải pháp phân vùng khai thác của 
một số nghề ở VVP như sau: 
a. Nguyên tắc phân vùng 
- Vùng phía trong đường giới hạn A1(12°37'15,1"N, 109°18'11,7"E)-A2 
(12°35'08,1"N, 109°14'44,8"E) là vùng có khu bảo vệ hệ sinh thái biển Rạn Trào, 
nhiều hệ thống rừng ngập mặn, san hô, vì vậy không tiến hành phân vùng khai thác ở 
khu vực này. Khu vực này phục vụ cho công tác bảo tồn, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. 
- Chỉ tiến hành phân vùng khai thác ở khu vực phía ngoài đường giới hạn A1A2 
cho đến cửa VVP. 
- Không đưa vào phân vùng đối với nghề lưới kéo, te, xiệp, nghề lặn vì đây là các 
nghề cấm và đã được đề xuất giải pháp xử lý ở mục 3.4.1, 3.4.2 và mục 3.4.3. 
b. Đề xuất phân vùng 
*. Nghề lưới vây: 
Theo phân tích tại các mục 3.4.1, 3.4.2, 3.4.3 đối với các tàu thuyền đủ điều kiện 
nâng cấp, cải hoán lên tàu có công suất lớn hơn sẽ chuyển sang đánh bắt ở vùng lộng 
và vùng khơi. Vì vậy, đề tài đề xuất là giảm diện tích vùng khai thác truyền thống của 
nghề lưới vây ven bờ như hiện nay xuống và giới hạn phạm vi khai thác là từ 20m 
nước trở ra. 
Vùng khai thác của nghề lưới vây - vùng V (diện tích là 68,05km2), bao gồm cả 
ngư trường truyền thống. Vùng V được giới hạn bởi 5 điểm B1, B2, B3, B4, B5. 
*. Nghề lưới rê: 
Từ kết quả khảo sát vùng hoạt động của các nghề ở VVP (Phụ lục 5) cho thấy, 
nghề lưới rê tập trung khai thác ở 3 ngư trường chính (xã Vạn Hưng, Ninh Thuỷ-Ninh 
Hải, Ninh Phước). Điều đáng nói là ngư trường xã Vạn Hưng có khu bảo vệ hệ sinh 
thái biển Rạn Trào, tuy nhiên người dân vẫn khai thác nghề lưới rê đáy (lưới gõ) trong 
khu vực bảo tồn làm ảnh hưởng lớn đến các rạn san hô ở đây. 
Theo phân tích tại các mục 3.4.1, 3.4.2, 3.4.3 đối với các tàu thuyền đủ điều kiện 
nâng cấp, cải hoán lên tàu có công suất lớn hơn sẽ chuyển sang đánh bắt ở ngư trường 
Ninh Thuỷ-Ninh Hải, Ninh Phước hoặc đánh bắt ở vùng lộng và vùng khơi. 
Đối với số tàu thuyền còn lại đề tài đề xuất diện tích vùng khai thác R1, R2, cấm 
khai thác nghề lưới rê ở ngư trường xã Vạn Hưng (vùng bảo tồn) và yêu cầu ngư dân 
chuyển sang khai thác ở vùng R1, R2, ở phạm vi từ 10m nước trở ra. Vùng R1 (diện 
tích là 27,83km2; giới hạn bởi các điểm B6, B7, B8, B9, B4), vùng R2 (diện tích là 
29,69km2, giới hạn bởi các điểm B14, B15, B16, B17, B4). 
*. Nghề câu: 
Để đảm bảo việc phân vùng khai thác hợp lý giữa các nghề và tránh xung đột 
ngư trường khai thác của các nghề, đề tài đề xuất vùng khai thác của nghề câu từ 5m 
nước trở ra. Vùng khai thác mới của nghề câu là C1 (diện tích là 12,73km2, gồm các 
điểm B7, B10, B11, B12, B13, B9, B8), vùng C2 (diện tích là 13,50km2, gồm các 
điểm B15, B18, B19, B20, B21, B17, B16). 
Tổng hợp kết quả phân vùng khai thác của một số nghề ở VVP được thể hiện 
trong Phụ lục 6. 
52 
3.4.6 Đánh giá tính khả thi của các giải pháp 
Trước tiên là phải có biện pháp tuyên truyền giáo dục để ngư dân, chủ tàu thấy rõ 
trách nhiệm, quyền hạn của mình khu vực nào được đánh cá, khu vực nào cấm hoạt 
động nghề gì, nghề nào cấm...là việc làm cần thiết và khả thi. Khi người dân hiểu, thấy 
rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình thì họ mới đồng tình ủng hộ và còn là cộng tác viên 
tích cực đối với các bộ phận quản lý nhà nước về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. 
Tiếp theo là việc điều chỉnh hoạt động khai thác của các tàu lưới kéo và tàu có 
công suất ≥20CV, cơ cấu lại các nghề khai thác và đã được Nhà nước quy định bằng 
các văn bản pháp lý [7,12,13]. Bên cạnh đó UBND tỉnh Khánh Hoà cũng đã ban hành 
các văn bản để triển khai các quy định của Nhà nước về quản lý hoạt động khai thác 
trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà và quy hoạch ngành thuỷ sản Khánh Hoà đến 2020 
[28,35]. Việc làm này mang tính đồng bộ đối với các địa phương có biển. Luận án đề 
xuất điều chỉnh hoạt động khai thác của các tàu có công suất ≥20CV, tàu lưới kéo là 
phù hợp với chủ trương chung và có tính khả thi. 
Khi nghề lưới kéo không được hoạt động trong vùng biển ven bờ thì những tàu 
lưới kéo lắp máy dưới 20CV cũng phải chấp nhận. Tuy nhiên, những ngư dân này 
chuyển đổi nghề sang nghề khác là việc làm không dễ khi mà họ đã làm nghề này gần 
cả cuộc đời. Mặt khác những ngư dân này hầu hết là nghèo, trình độ học vấn thấp thì 
việc chuyển đổi nghề lại càng khó hơn. Do vậy, đồng thời với tuyên truyền giáo dục để 
người dân hiểu thì phải có biện pháp hỗ trợ cụ thể về tài chính, hướng nghiệp,...Bên 
cạnh đó, ở vịnh Vân Phong ngành du lịch và nghề nuôi biển đang phát triển thì việc 
chuyển đổi các chủ tàu (như đã phân tích ở mục 3.4.1 và 3.4.2) này sang làm dịch vụ 
nuôi trồng thuỷ sản và du lịch là có tính khả thi. 
Giải pháp khôi phục rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm cỏ biển và phân vùng 
khai thác ở vùng biển VVP là phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ sản Việt 
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [13], quy hoạch tổng thể phát triển ngành 
thuỷ sản Khánh Hoà giai đoạn 2015 có tính đến 2020 [28] và điều chỉnh quy hoạch 
chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà đến năm 2030 [15]. 
Tóm lại, với những nội dung đã phân tích như trên các giải pháp mà luận án đề 
xuất là có tính khả thi. 
3.4.7 Phân tích kết quả đạt được của các giải pháp 
Nếu các giải pháp trên được thực hiện tốt sẽ mang lại một số hiệu quả sau: 
- Khi tàu có công suất ≥20CV, tàu lưới kéo không còn hoạt động ở VVP thì cá 
con, cá non, tôm con, mực nhỏ...không bị khai thác như trước đây. Những loài hải sản 
non này sẽ là nguồn bổ sung, cung cấp nguồn lợi cho VVP, vùng lộng, vùng khơi. 
- Nếu giải quyết thoả đáng vấn đề số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các 
nghề KTTS ở VVP thì sẽ đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội đối với người dân xung 
quanh vịnh. Khi đó người dân sẽ tích cực tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển 
nguồn lợi thuỷ sản ở VVP. 
- Giảm được cường lực khai thác tại VVP sẽ giảm được ảnh hưởng của hoạt động 
khai thác đến sự phân bố đàn cá nên quần đàn có điều kiện tái tạo, phát triển và bảo 
toàn, tăng hiệu quả khai thác. 
- Không vi phạm qui định về kích thước cá khai thác (đặc biệt là cá trong thời kỳ 
sinh sản) nên sẽ bảo vệ được nguồn lợi. 
53 
- Đáy biển không bị phá hủy, các loài động thực vật đáy (san hô, cỏ biển, rong 
biển) và rừng ngập mặn không bị xâm hại, nơi trú ẩn của các loài hải sản được phục 
hồi. Các loài hải sản có nơi để trú ẩn, sinh sống và phát triển. 
- Trồng thêm rừng ngập mặn, phục hồi các rạn san hô và cỏ biển ở VVP cũng có 
nghĩa là mở rộng nơi sinh sản, trú ẩn của các loài hải sản. Điều này sẽ dẫn đến nguồn 
lợi thuỷ sản trong vịnh được bảo vệ, bổ sung liên tục và phát triển bền vững. 
- Lực lượng thanh tra thuỷ sản có đủ phương tiện và kinh phí hoạt động thì công 
tác tuần tra, kiểm soát ngư trường sẽ được tiến hành thường xuyên hơn, góp phần vào 
công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở VVP. 
- Khi đã phân vùng khai thác các nghề ở VVP và duy trì số lượng tàu khai thác 
hợp lý, đồng thời kiểm tra và giám sát được hoạt động khai thác của đội tàu, sẽ đảm 
bảo được cường lực khai thác hợp lý với trữ lượng khai thác cho phép, bảo vệ được 
nguồn lợi tại vùng biển. 
- Khi chủ tàu, người dân nhận thức được trách nhiệm của mình trong vấn đề bảo 
vệ nguồn lợi thủy sản thì những vi phạm về pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi 
thủy sản sẽ bị loại bỏ dần. Khi đã thấy rõ trách nhiệm của mình thì chính người dân sẽ 
trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về bảo vệ và phát triển nguồn 
lợi thủy sản của các tàu thuyền khác KTTS ở VVP. 
54 
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
KẾT LUẬN 
Từ các kết quả nghiên cứu trên, cho phép tác giả đưa ra một số kết luận sau: 
1. Thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở vịnh Vân Phong đã và đang vi 
phạm các quy định của Nhà nước (Nghị định số 33/2010/NĐ-CP, Thông tư số 
62/2008/TT-BNN) cũng như của địa phương (Quyết định số 05/2014/QĐ-UBND) về 
vùng hoạt động của tàu thuyền, các nghề cấm (tàu lưới kéo-453 chiếc, tàu có công suất 
≥20CV-487 chiếc). Sự gia tăng số lượng tàu thuyền khai thác trong vịnh Vân Phong 
giai đoạn 2008-2015 làm cho nguồn lợi ở vịnh Vân Phong ngày càng suy giảm. 
2. Cường lực khai thác bền vững tối đa tại vịnh Vân Phong là 1.263 tàu, sản 
lượng khai thác bền vững tối đa là 8.045 tấn. Trong đó, nghề lưới kéo là 362 tàu, nghề 
lưới vây là 248 tàu, nghề lưới rê là 137 tàu, nghề câu 199 tàu và nhóm nghề khác là 
317 tàu. 
3. Cường lực khai thác ở vịnh Vân Phong hiện nay đã vượt ngưỡng cường lực 
khai thác bền vững tối đa 33,02% tương ứng với 417 tàu. Trong đó, nghề lưới kéo có 
cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa 91 tàu, nghề 
lưới vây có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa là 
78 tàu, nghề lưới rê có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững 
tối đa là 91 tàu, nghề câu có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường lực khai thác bền 
vững tối đa là 78 tàu và nhóm nghề khác có cường lực khai thác vượt ngưỡng cường 
lực khai thác bền vững tối đa là 79 tàu. 
4. Chính quyền địa phương tại các xã, phường quanh vịnh Vân Phong chưa quan 
tâm đúng mức trong công tác tuyên truyền giáo dục về bảo vệ và phát triển nguồn lợi 
thủy sản, cũng như kiên quyết ngăn chặn và xử lý các hành vi phá hoại nguồn lợi thủy 
sản. 
5. Đề tài đã xây dựng được 5 giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ 
sản ở vịnh Vân Phong: 
- Giải pháp 1: Điều chỉnh hoạt động khai thác thuỷ sản thông qua ngăn ngừa hoạt 
động của tàu lưới kéo, tàu có công suất ≥20CV trong vùng biển vịnh Vân Phong bằng 
cách điều chỉnh tổng cường lực nhỏ hơn mức cường lực khai thác hợp lý và biện pháp 
tuyên truyền giáo dục, chủ tàu đăng ký vùng hoạt động cho tàu của mình, chủ tàu cam 
kết thực hiện đúng bản đăng ký và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. 
- Giải pháp 2: Điều chỉnh lại cơ cấu các nghề khai thác bằng cách cắt giảm 220 
tàu lưới kéo có công suất dưới 20CV và phân bổ số tàu này cho các nghề nghề lưới 
vây, nghề lưới rê, nghề câu và nghề khác. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất 2 bước để 
thực hiện việc cắt giảm các tàu thuyền làm nghề lưới kéo hoạt động trong vịnh Vân 
Phong (là nghề đã bị cấm hoạt động trong vịnh Vân Phong theo quyết định số 
05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà). 
- Giải pháp 3: Xử lý đối với số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề khai 
thác bằng cách chuyển đổi số tàu thuyền nêu trên sang nghề khác ít gây hại đối với 
nguồn lợi thuỷ sản ở vùng biển vịnh Vân Phong hoặc cải hoán, nâng cấp vỏ tàu, máy 
tàu để khai thác tại vùng lộng và vùng khơi. 
- Giải pháp 4: Phục hồi, tái tạo một số nơi cư trú điển hình của các loài hải sản 
bằng cách: trồng mới, trồng bổ sung để phục hồi các khu vực rạn san hô, cỏ biển và 
rừng ngập mặn đã bị tàn pháp ở vịnh Vân Phong; giáo dục tuyên truyền để người dân 
55 
xung quanh vịnh Vân Phong thấy rõ tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển 
và rạn san hô đối với môi trường và nguồn lợi thuỷ sản. 
- Giải pháp 5: Đã xây dựng được phân vùng khai thác thuỷ sản với tổng diện tích 
mặt nước là 151,8 km2. Trong đó vùng khai thác của nghề lưới vây - 68,05 km2; nghề 
lưới rê - 57,52 km2 và nghề câu - 26,23km2. 
KHUYẾN NGHỊ 
Nghiên cứu đánh giá tác động của các các hoạt động du lịch, cảng biển, nuôi 
trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, hoạt động công nghiệp và nguồn nước thải từ các 
khu dân cư đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung về nguồn lợi thuỷ sản, trữ lượng của vùng biển vịnh 
Vân Phong. 
Xây dựng quy hoạch thuỷ sản vịnh Vân Phong và đưa kết quả nghiên cứu phân 
vùng khai thác vào quy hoạch chi tiết về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. 
56 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 
1. Vũ Kế Nghiệp, Phan Trọng Huyến, Trần Đức Phú (2015), “Thực trạng hoạt động 
khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học - Công 
nghệ Thủy sản, 2015 (3), Trường Đại học Nha Trang, tr. 32-35. 
2. Phan Trọng Huyến, Vũ Kế Nghiệp, Nguyễn Thị Hoa Hồng (2016), “Kết quả nghiên 
cứu xây dựng nội dung khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản”, Tạp chí Khoa học - 
Công nghệ Thủy sản, 2016 (2), Trường Đại học Nha Trang, tr. 25-31. 
3. Vũ Kế Nghiệp, Phan Trọng Huyến, Trần Đức Phú (2016), “Kết quả nghiên cứu về 
cường lực và sản lượng khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản vùng biển vịnh Vân 
Phong, tỉnh Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, 2016 (4), 
Trường Đại học Nha Trang, tr. 79-84. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_bao_ve_va_phat_t.pdf