Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm trong quan hệ gia đình

Từ xưa đến nay gia đình được coi là nền tảng của xã hội, quan hệ

gia đình là cơ sở của quan hệ xã hội. Nho giáo quan niệm “Quốc chi bản tại gia”

nên rất coi trọng việc xây dựng các chuẩn mực về trách nhiệm trong quan hệ gia

đình. Bài viết phân tích tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam (Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngô Thì Nhậm) về trách nhiệm trong quan hệ gia đình

(cha - con, chồng - vợ, anh - em), từ đó rút ra những bài học có ý nghĩa nâng cao

trách nhiệm của mỗi thành viên trong quan hệ gia đình ở Việt Nam hiện nay

pdf 15 trang dienloan 4120
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm trong quan hệ gia đình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm trong quan hệ gia đình

Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm trong quan hệ gia đình
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 73
TƯ TƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÀ NHO VIỆT NAM 
VỀ TRÁCH NHIỆM TRONG QUAN HỆ GIA ĐÌNH 
NGUYỄN BÁ CƯỜNG* 
Tóm tắt: Từ xưa đến nay gia đình được coi là nền tảng của xã hội, quan hệ 
gia đình là cơ sở của quan hệ xã hội. Nho giáo quan niệm “Quốc chi bản tại gia” 
nên rất coi trọng việc xây dựng các chuẩn mực về trách nhiệm trong quan hệ gia 
đình. Bài viết phân tích tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam (Nguyễn Trãi, 
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngô Thì Nhậm) về trách nhiệm trong quan hệ gia đình 
(cha - con, chồng - vợ, anh - em), từ đó rút ra những bài học có ý nghĩa nâng cao 
trách nhiệm của mỗi thành viên trong quan hệ gia đình ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Trách nhiệm, gia đình, nhà Nho Việt Nam. 
1. Quan niệm của Nho giáo về 
trách nhiệm 
Theo Nho giáo, “trách nhiệm” là yêu 
cầu, đòi hỏi về phẩm hạnh đạo đức đối 
với người khác hoặc đối với chính mình, 
hoặc cũng là gánh nặng, gắn với chức 
vụ nhất định được giao phải hoàn thành. 
Khổng Tử nói: Đòi hỏi ở mình nhiều mà 
ít ở người, làm được như thế thì tránh xa 
được sự oán hận. Tăng Tử nói: Kẻ sĩ 
không thể không có ý chí và nghị lực 
lớn. Gánh thì nặng mà đường thì xa. 
Mạnh Tử nói: Người có trách nhiệm phải 
nói mà chẳng đắt lời thì đi. Như thế, Nho 
giáo nguyên thủy quan niệm trách nhiệm 
được thể hiện trong mối quan hệ giữa cá 
nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội. 
Trách nhiệm luôn mang tính xã hội bởi 
nó được quy định bởi các quan hệ xã hội, 
thông qua quan hệ xã hội mà biểu hiện. 
Từ cách tiếp cận trên, có thể thấy, 
trong các học thuyết có ảnh hưởng đến 
tư tưởng và văn hóa của người Việt Nam 
thì Nho giáo là học thuyết chính trị - xã 
hội quan tâm nhiều đến trách nhiệm. 
Nhà Nho bao giờ cũng đặt ra cho mình 
yêu cầu “tu thân - tề gia - trị quốc - bình 
thiên hạ”. Thực hiện những yêu cầu đó, 
thực chất là thực hiện trách nhiệm của 
cá nhân đối với bản thân mình, gia đình 
và xã hội.(*) 
Trong các thành phần xã hội xưa, nhà 
Nho luôn được coi là lực lượng có tính 
chất tiên phong trong việc thực hiện 
trách nhiệm cá nhân đối với xã hội. 
Những nhà Nho chân chính luôn đau 
đáu việc dân, việc nước, việc vua, việc 
làng. Lý tưởng sống của họ luôn gắn 
liền với vận mệnh của đất nước, của 
nhân dân và sự thịnh suy của các triều 
đại. Họ quan niệm phép tắc hay phương 
châm sống của nhà Nho sẵn có trách 
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 74
nhiệm lo việc nước, cứu đời. Nhà Nho 
chân chính dù đắc thời hay thất thế thì 
đều thực hiện ý hướng thực hành đạo lý 
của mình. Trong các cuộc đấu tranh 
giành độc lập dân tộc, nhiều nhà Nho 
thức thời luôn tiên phong làm tham 
mưu, cố vấn, “quân sư” cho các lãnh tụ, 
các bậc minh chủ. Triết lý sống “tiến vi 
quan, thoái vi sư” của các nhà Nho đã 
hàm chứa tinh thần trách nhiệm đối với 
xã hội. Nếu học hành, thi cử đỗ đạt và 
được trọng dụng thăng tiến quan chức 
thì họ thực hiện sự nghiệp “kinh bang tế 
thế”, giúp ích cho xã tắc, vinh hiển cho 
bản thân, rạng danh công đức tổ tiên 
dòng họ. Còn nếu không được trọng 
dụng để đạt được ý nguyện của mình thì 
họ lui về ở ẩn, sống cuộc đời thanh bạch 
nhưng vẫn một lòng “ưu thời mẫn thế” 
mà dạy học đào tạo nhân tài, bồi đắp 
văn hóa dân tộc, tạo dựng các thế hệ sau 
nhằm chuẩn bị nhân lực cho công cuộc 
hành đạo tiếp theo. Như thế, họ ý thức 
được rằng, nếu học trò được vinh hiển 
thì sự nghiệp và tư tưởng của mình 
không mất đi mà vẫn thường ngày tác 
động đến triều chính. Có thể khẳng định 
rằng, trí thức Nho học dù ở cương vị 
nào cũng đều ít nhiều thực hiện trách 
nhiệm của mình đối với xã hội. 
Nho giáo rất quan tâm đến trách 
nhiệm. Trách nhiệm thể hiện trong các 
mối quan hệ giữa người với người trong 
phạm vi rất rộng. Đó là: quan hệ giữa cá 
nhân với cá nhân nói chung (bản thân - 
người khác; cha - con; chồng - vợ; anh - 
em,...); quan hệ giữa cá nhân với cá nhân 
trong xã hội (vua - tôi; người lớn tuổi - 
người ít tuổi; bạn bè; thầy giáo - học 
trò...); quan hệ giữa cá nhân và xã hội 
(bản thân - nhà - nước - thiên hạ);... 
Trong từng mối quan hệ nói trên, Nho 
giáo đều đưa ra những nguyên tắc đối xử 
nhất định mà mỗi đối tượng đều phải 
tuân theo, thể hiện trách nhiệm của bản 
thân trong từng mối quan hệ. Khi Nho 
giáo truyền vào nước ta, theo thời gian, 
những nguyên tắc đối xử và trách nhiệm 
giữa người với người trên quan điểm 
Nho giáo cũng dần dần tác động vào xã 
hội mà trước hết được các nhà Nho tiếp 
nhận và vận dụng. Tuy nhiên, tùy vào 
mỗi thời đại, dựa trên những điều kiện 
kinh tế, chính trị - xã hội nhất định, quan 
niệm về từng mối quan hệ xã hội cũng có 
những điểm khác biệt. 
2. Tư tưởng của một số nhà Nho 
Việt Nam về trách nhiệm trong quan 
hệ gia đình 
2.1. Trách nhiệm trong quan hệ 
cha - con 
Đối với Nho gia, quan hệ cha - con 
là một trong các mối quan hệ cơ bản 
của xã hội, thuộc “Tam cương” hay 
“Ngũ luân”. Người cha trong xã hội 
phong kiến có vai trò và trách nhiệm to 
lớn trong việc xác định chí hướng và 
tạo dựng sự nghiệp cho người con. Các 
nhà nho Việt Nam cũng tiếp nhận những 
tư tưởng của Nho giáo để xác định trách 
nhiệm trong quan hệ cha - con. 
Đối với người cha, phẩm chất quan 
trọng cần có là mẫu mực, hiền từ, luôn 
có tinh thần tu dưỡng đạo đức, nhân 
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 75
cách để làm gương cho con cháu. Về 
trách nhiệm của người cha đối con, 
Nguyễn Trãi nêu: “Lòng hãy cho bền 
đạo Khổng môn,/ Tích đức cho con hơn 
tích của./ ... Nhi tôn đã có phúc nhi 
tôn”(1); “Để lại đất tâm làm chỗ trồng 
phúc cho con cháu”(2). Nguyễn Bỉnh 
Khiêm xác định cha - con là tình thân 
tột độ và cho rằng: cha mẹ phải có trách 
nhiệm “trồng cây đức để con ăn”, phải 
“tích đức cho con”(3). Ngô Thì Nhậm 
quan niệm các bậc cha mẹ phải làm 
gương cho con cháu, điều cốt yếu là 
“đức hạnh để lại cho con cháu”(4). 
Những quan niệm đó của các ông rất 
gần với quan niệm truyền thống về 
trách nhiệm của cha mẹ: “phúc đức tại 
mẫu”, “tu nhân tích đức”,... Ngô Thì 
Nhậm còn có một cách nhìn khác so 
với Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh 
Khiêm về vai trò và trách nhiệm của 
người cha. Ông cho rằng, trách nhiệm 
của người làm cha phải có sự hiểu biết 
để định hướng cho con. Vì: “Người làm 
cha làm anh, không hiểu biết ý nghĩa 
của việc ứng xử trong lúc biến, tất sẽ 
đưa con em mình đến chỗ lỗi lầm”(5). 
Theo ông, tình cảm, trách nhiệm mà 
cha mẹ dành cho con phải là mãi mãi 
chứ không chỉ chăm lo cho đến độ 
trưởng thành(6)... Điều này càng chỉ rõ 
trách nhiệm định hướng ý chí, phương 
cách hành xử và sự miệt mài tạo dựng, 
chăm lo của các bậc cha mẹ đối với đời 
sống của con cái. Đối với nhà Nho, 
trách nhiệm xây dựng và đường hướng 
cho con được xác định là mục đích tự 
thân bởi chỉ có như vậy, Nho gia mới 
thực hiện được quan niệm “cha truyền 
con nối”, “kế nghiệp thi thư”,... 
Xuất phát từ quan hệ tự nhiên, Ngô 
Thì Nhậm còn lý giải quan hệ tình cảm 
và phương cách ứng xử của người cha; 
đồng thời, cảnh báo hậu quả của sự thiếu 
sáng suốt trong việc thực thi trách nhiệm 
làm cha. Ông viết: “Cha con là quan hệ 
thân mật nhất theo tính thiên nhiên. 
Nhưng rồi vì thiên lệch mà mất sáng 
suốt, mất sáng suốt sinh ra nghi ngờ. 
Nghi ngờ sinh ra ghét bỏ. Ghét bỏ sinh ra 
tàn nhẫn”. Nếu “người làm cha nghe lời 
gièm pha mà không suy xét, cố nhiên có 
thể tổn thương đến ân tình. Những nghe 
người khác nói lời ly gián mà không biết 
phân tách nhận xét, bị những lời khen 
ngợi che lấp mà không biết rõ mật xấu, 
sẽ xảy ra những biến cố từ nơi khủy 
nách(7). Ông đi đến quan niệm rằng, 
chính những biến cố gây tổn thương 
trong gia đình là “điều đáng lo ngại nhất 
của việc đứng đầu nhà nước”, bởi vì theo 
(1) Nguyễn Trãi, Toàn tập (tân biên), tập 3, Mai 
Quốc Liên chủ biên (in lần thứ hai) (2001), 
Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn 
học, Hà Nội, tr. 895. 
(2) Sđd, tập 1, tr. 210. 
(3) Bùi Văn Nguyên (1989), Thơ văn Nguyễn 
Bỉnh Khiêm, tập một - Bạch Vân quốc ngữ thi 
tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 110. 
(4) Ngô Thì Nhậm (2005), Toàn tập, tập 4, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 555. 
(5) Sđd, tr.413. 
(6) Ngô Thì Nhậm (2004), Toàn tập, tập 2, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 480. 
(7) Ngô Thì Nhậm, Toàn tập, tập 4, Mai Quốc 
Liên chủ biên (2001), Trung tâm nghiên cứu 
Quốc học và Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 455. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 76
nguyên lý Nho giáo: “tiên tề gia, hậu trị 
quốc”. Từ đó, Ngô Thì Nhậm chủ trương 
cần phải ngăn cấm bạo loạn từ trong 
quan hệ gia đình thì mới ngăn chặn sâu 
xa bạo loạn xã hội(8). Coi “đạo nhà là gốc 
của đạo nước”, ông cũng tán thành quan 
điểm của Kinh Dịch khi nói về nghĩa cha 
- con: “Cha phải đạo cha, con phải đạo 
con,... đạo trong nhà ngay thẳng thì thiên 
hạ bình trị”(9). 
Như thế, các nhà nho Việt Nam đã 
nhấn mạnh đến hai phương diện trách 
nhiệm của người cha đối với con. Thứ 
nhất, người cha có trách nhiệm phải là 
tấm gương mẫu mực về nhân cách và 
đối xử với con theo nghĩa “phụ tử tình 
thâm”. Sự gương mẫu trong cuộc sống 
của người cha chính là tinh thần và là 
nguồn sống nuôi dưỡng ý chí và nghị 
lực của người con. Bởi thế, quan niệm 
“tích đức”, “trồng phúc” đều có ý nghĩa 
tạo dựng đời sống tinh thần và truyền lại 
những giá trị cao đẹp trong tình cha - 
con. Thứ hai, người cha có trách nhiệm 
đường hướng, nâng đỡ và dẫn dắt cho 
con trong từng bước trưởng thành. 
Quan điểm tiến bộ có giá trị thực tiễn 
sâu sắc của Ngô Thì Nhậm là ở chỗ: 
người cha có trách nhiệm đối với con 
trên cơ sở của sự hiểu biết chứ không 
dựa trên tình cảm tự nhiên thuần khiết, 
không xuất phát từ ý muốn chủ quan mù 
quáng. Sự hiểu biết sáng suốt và cách 
ứng xử khôn ngoan của người cha chẳng 
những là sự mở đường tiến bộ mà còn 
giúp cho người con tránh được những 
sai lầm trong cuộc sống. Trong gia đình 
Nho giáo ở nước ta trước đây, vai trò 
của người cha có tính chất quyết định 
mọi bước đường của người con và chi 
phối tất cả các mối quan hệ bên trong 
cũng như bên ngoài của các thành viên. 
Sự suy sụp về cả đời sống vật chất và 
đời sống tinh thần của gia đình, gia tộc 
hầu hết bắt nguồn từ việc đánh mất vị trí 
trụ cột của người cha. Trong xã hội Việt 
Nam ngày nay, vai trò làm cha làm mẹ 
thể hiện ở trách nhiệm nuôi dạy và 
đường hướng, dẫn dắt cho con cái vẫn 
được coi là cơ sở, nền tảng thành công 
của mỗi cá nhân trong cộng đồng. 
Đối với người con, các nhà Nho Việt 
Nam đều có chung quan điểm về trách 
nhiệm và bổn phận thể hiện ở việc thực 
hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ. 
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm 
đều cho rằng, bổn phận làm con phải lấy 
hiếu kính hết lòng báo đáp công ơn cha 
mẹ, coi đó là điều tốt đẹp làm “của báu 
ở đời”. Thông qua triết lý dân gian, các 
ông truyền tải tinh thần hiếu thuận một 
cách rất gần gũi: “Nuôi con mới biết 
lòng cha mẹ”, “Có con mới biết ơn cha 
nặng”, “Được làm người, nhờ đức 
cha”,... Còn Ngô Thì Nhậm quan niệm 
“hiếu” đứng đầu các tiêu chí để đánh giá 
phẩm chất đạo đức con người. Ông 
khẳng định: “Một chữ hiếu tạo vị trí 
đứng đầu mối giường thứ bậc”(10). Chủ 
trương thực hiện đạo làm người theo Nho 
(8) Sđd, tr. 643-644. 
(9) Sđd, tr. 218 - 219. 
(10) Sđd, tập 1, tr. 836. 
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 77
giáo được ông xác lập là: “Hiếu kính trị 
gia đình; trang nghiêm đối quyến 
thuộc”(11). Ông coi đạo hiếu có giá trị 
giáo dục lâu dài, có tác dụng “giữ đạo 
người”(12). Các nhà Nho Việt Nam 
thường gắn trách nhiệm gia đình với 
trách nhiệm xã hội, cho nên hay nói đến 
“nghĩa quân thần”, “niềm trung hiếu” 
với một tinh thần thể hiện rõ trách 
nhiệm cá nhân đến mối quan hệ huyết 
thống và quan hệ xã hội trên cơ sở nghĩa 
vụ và bổn phận của người làm con, làm 
bề tôi với cha mẹ, với nhà vua. 
Về cách thức thể hiện trách nhiệm 
của người con đối với cha mẹ thông qua 
việc thực hiện đạo hiếu, các nhà Nho 
Việt Nam đều có những quan điểm 
tương đồng. Theo Nguyễn Trãi, đạo làm 
con phải biết nghe lời cha mẹ, phải quan 
tâm biết lo chỗ ăn nghỉ yên ấm và biết 
săn sóc, phụng dưỡng, lo toan sức khỏe 
cho cha mẹ(13), phải có nghĩa vụ giữ gìn, 
tiếp nối được lối sống hòa hợp của ông 
cha để lại(14). Nguyễn Bỉnh Khiêm trong 
bài Tử sự phụ mẫu đã nêu rõ đạo làm 
con phải “trọn đạo” với cha mẹ, cụ thể 
là: cung kính, tận tâm phụng dưỡng cha 
mẹ, sớm tối siêng năng chăm sóc, tận 
tình thăm hỏi, dù cho cha mẹ có giận 
hờn vẫn “càng kính thuận”, khi được sai 
khiến công việc chớ nên phàn nàn về sự 
vất vả của bản thân(15). Có thể ở đây, ông 
đã tiếp thu tư tưởng của Khổng Tử khi 
đặt nặng trách nhiệm của người con đối 
với cha mẹ, buộc họ phải thuận theo 
trong mọi trường hợp. Tính chất một 
chiều về trách nhiệm trong quan hệ cha - 
con còn thể hiện rõ hơn ở bài Khuyến 
hôn sự công cô. Ở đó, dấu ấn đạo đức 
Nho gia phong kiến vẫn còn đậm nét khi 
ông yêu cầu người con dâu phải nhất 
nhất chấp hành mọi việc làm, thói quen 
của nhà chồng, mọi tính yêu ghét của nhà 
chồng, trong mọi trường hợp đều phải 
“càng gìn lễ phép”, không được suy nghĩ 
khác, ngay cả khi bị giận hờn, mắng, 
thương, lúc nào cũng phải nơm nớp đón 
ý của mọi người trong gia đình để lựa 
theo cho vừa lòng(16). Theo đó, người 
con dâu trong gia đình hoàn toàn phụ 
thuộc, không có sự cảm thông, chia sẻ. 
Ngô Thì Nhậm đi từ quan niệm người 
cha phải đường hướng cho con để chỉ rõ 
trách nhiệm của người con: “Phận làm 
con phải chăm chỉ, gắng tiến bước, xứng 
với lòng cha, lo lắng việc nhà”(17). Trách 
nhiệm đó còn thể hiện ở những điều cụ 
thể: ghi nhớ công ơn sinh thành của cha 
mẹ, giữ gìn thân thể được lành mạnh, có 
ý chí lập thân để làm vinh hiển cho bản 
thân và cho cha mẹ, phụng dưỡng cha 
mẹ khi về già và chôn cất, thờ cúng 
cung kính khi cha mẹ mất,... Ông viết: 
“Cha mẹ vất vả mới có thân ta. Thân ta 
được lành mạnh mới bảo toàn được cái 
thân thể sót lại của cha mẹ... Người có 
lòng đại hiếu thì tôn kính cha mẹ, thứ 
(11) Sđd, tr. 645. 
(12) Sđd, tr. 497. 
(13) Sđd, Nguyễn Trãi, tập 1, tr. 328-329. 
(14) Sđd, tập 3, tr. 942. 
(15) Sđd, Bùi Văn Nguyên, tr. 125. 
(16) Sđd, tr. 128. 
(17) Sđd, Ngô Thì Nhậm, tập 3, tr. 329-330. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 78
đến là không để nhục cho cha mẹ”(18). 
Đối với việc phụng dưỡng cha mẹ, Ngô 
Thì Nhậm đi từ tình yêu thương của cha 
mẹ dành cho con cái để giáo dục thái độ 
ân cần, chu đáo, cẩn thận, cung kính của 
người con trong quá trình chăm sóc, 
phụng dưỡng cha mẹ. Điều này cũng 
giống như quan niệm của Khổng Tử về 
hiếu(19). 
Như vậy, có thể nhận thấy, các nhà 
Nho Việt Nam khi bàn đến trách nhiệm 
của người con đối với cha mẹ vẫn tuân 
theo những chuẩn mực của Nho gia, đặc 
biệt gần gũi với quan điểm của Khổng 
Tử. Ở đó, trách nhiệm của người con thể 
hiện tập trung ở đạo hiếu và có thể khái 
quát như sau: kính trọng, biết  ... 6. 
(32) Sđd, Ngô Thì Nhậm, tập 1, tr. 255-257. 
(33) Sđd, Ngô Thì Nhậm, tr. 294-295. 
(34) Nguyễn Tài Thư (2005), Vấn đề con người 
trong Nho học sơ kỳ, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội, tr. 96-97. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 82
thay đổi từ tính chất hai chiều thành một 
chiều, “từ nghĩa vụ của hai phía đối với 
nhau đến chỗ chỉ còn nghĩa vụ của kẻ 
dưới đối với người trên”(35). Quan hệ 
anh - em cũng vì thế mà không còn dựa 
trên tình cảm yêu thương thực sự bình 
đẳng mà đã có sự phân biệt. Tuy nhiên, 
ở các nhà Nho Việt Nam, trong đó có 
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và 
Ngô Thì Nhậm, tư tưởng về mối quan 
hệ anh - em vẫn chủ yếu dựa trên tình 
cảm cốt nhục yêu thương nhau hết mực 
thân thiết và có trách nhiệm nâng đỡ 
lẫn nhau. 
Nguyễn Trãi cho rằng, anh em phải 
biết yêu thương nhau, chớ có làm hại 
nhau vì anh em cùng do cha mẹ sinh ra. 
Ông coi tình anh em cùng chung một cội 
và kêu gọi: Thế gian ai có anh em thì 
biết nhớ lấy, chớ có quên “nghĩa đệ 
huynh”. Ông khuyên anh em phải thương 
yêu nhau nhưng không đặt ra yêu cầu 
em phải theo anh, cũng không nói 
“quyền huynh thế phụ” như Nho giáo 
vẫn thường quan niệm. Theo Nguyễn 
Trãi, nếu như đối với bạn bè, giới hạn 
quan hệ không thể tiếp tục khi họ 
khinh rẻ nhau, nhưng đối với quan hệ 
anh - em thì dù không ưa nhau mà có 
trách móc nhau cũng không được cắt 
đứt quan hệ. Ông viết: “Bạn tác dể 
duôi đà phải chịu,/ Anh em trách móc 
ấy khôn từ”(36). Điều này cho thấy mỗi 
người cần nhận thức và thể hiện tình 
cảm cốt nhục, trách nhiệm yêu thương 
nhau trong quan hệ anh - em. 
Nguyễn Bỉnh Khiêm đi từ nhận thức 
về tình cảm tự nhiên của những người 
có cùng huyết thống để nêu lên yêu cầu 
cần thiết phải xây dựng mối quan hệ 
tình cảm tốt đẹp và trách nhiệm lẫn nhau 
giữa anh - em. Bài Khuyến huynh đệ vật 
cạnh tranh nêu rõ: Anh em do cha mẹ 
sinh thành, cũng là kết quả của tạo hóa, 
trời đất nên phải biết giúp đỡ nhau khắc 
phục khó khăn, nương tựa vào nhau để 
bảo vệ nhau, chống lại mọi sự khinh rẻ 
của người khác, phải lấy sự kính 
nhường, yêu thương, thuận hòa làm 
trọng, luôn nghĩ đến tình yêu thương của 
cha mẹ mà tránh tranh giành, xích mích 
để cha mẹ yên lòng. Tình cảm đạo lý anh 
em cần được trân trọng như tay với chân 
trên cùng một cơ thể, không nên tranh 
giành mà làm tổn hại đến phép tắc gia 
phong(37). Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn 
mạnh trong quan hệ anh em, cần giữ gìn 
phẩm chất cơ bản là thuận hòa(38). Mối 
quan hệ đó được biểu hiện có tính chất 
hai chiều: “Anh và em, người cung thì 
người có đễ”, anh em cùng chung hưởng 
phú quý. Nếu một trong hai phía mà 
không thực hiện trách nhiệm của mình 
thì quan hệ đó bị phá vỡ. Bởi vì: “Chẳng 
có lòng hữu ái, anh chẳng ra anh,/ 
Không có lòng kính mến, em chẳng ra 
em”(39). Đây là quan điểm tiến bộ của 
Nguyễn Bỉnh Khiêm so với quan điểm 
gia trưởng của Nho giáo phong kiến 
“trên bảo dưới phải nghe”. Cũng như 
Nguyễn Trãi, ông đã vượt lên khỏi 
(35) Sđd, tr. 99. 
(36) Sđd, Nguyễn Trãi, tập 3, tr. 1045. 
(37) Sđd, Bùi Văn Nguyên, tr. 125-126. 
(38) Sđd, Đinh Gia Khánh, tr. 333. 
(39) Sđd , tr. 316-317. 
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 83
những giáo lý cứng nhắc, một chiều 
khắc nghiệt của Nho giáo phong kiến để 
chủ trương xây dựng mối quan hệ anh - 
em bình đẳng, sống có trách nhiệm và 
thương yêu lẫn nhau. 
Từ quan niệm anh em là quan hệ máu 
thịt, tay chân nên phải biết yêu thương 
quý mến nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm 
cảnh báo nếu anh em không biết nhường 
nhịn nhau thì dẫn đến hậu quả đau lòng 
như hiện tượng: “Trả đũa, máu chảy thê 
thảm,/ Tranh ăn, tay bị hủy thương”. 
Thông qua những điển tích lịch sử, ông 
chủ trương tạo dựng quan hệ anh em 
trên cơ sở “tình thân cốt nhục”, phải 
biết khoan dung, vị tha cho nhau, chớ 
có vì lý do gì để tạo nên tình cảnh trái 
ngược: Băng giá và than hồng(40). Điều 
đặc biệt là cả Nguyễn Trãi và Nguyễn 
Bỉnh Khiêm đều dùng hình ảnh anh em 
có quan hệ cốt nhục như cành và hạt 
cùng chung một cây để khuyên răn anh 
em phải sống hòa thuận, không được 
bức hại nhau. Điều này các ông nêu ra 
để giáo dục người đời tránh xảy ra 
những xung đột trong quan hệ anh em. 
Đối với Ngô Thì Nhậm, quan hệ anh - 
em phải dựa trên sự mộc mạc, trong 
sáng và có lòng trung hậu. Ông viết 
trong thư trả lời em ruột là Huyền Trai: 
“Tình như trang sức trắng, mong đạt tới 
ngôi trên,/ Đạo tựa chiếc xiêm vàng, vẫn 
giữ lòng trung thuận”(41). Ngô Thì Nhậm 
cho rằng, mỗi anh - em trong gia đình 
phải có trách nhiệm gìn giữ được đạo 
làm người theo “danh giáo”, mà muốn 
vậy, cần coi trọng sự hòa hợp, mến 
mộ(42). Ông chỉ rõ: “Chỗ vui của đạo 
làm người đều là danh giáo” bởi có 
“tình anh em hòa hợp trên lầu trăm 
thước cao”(43). Chính vì quan hệ anh - 
em là một “giềng mối” của xã hội nên 
cần thiết phải duy trì và đề cao tình 
nghĩa anh em. Xét từ thực tế lịch sử, ông 
cho rằng, ngay cả khi “đạo lớn đã bị che 
lấp” thì người ta vẫn “biết quý trọng 
người thân của mình”. Vì thế, ông mong 
mỏi, răn dạy các em và con cháu phải 
giữ gìn tiếng thơm của gia tộc, luôn 
“cung kính hiếu đễ”, “chuyên cần mài 
giũa đạt tới kết quả công thành danh 
toại, phúc ấm đời đời dài mãi”. Từ 
những bước gian truân mà bản thân đã 
trải qua, Ngô Thì Nhậm “tả nỗi lòng để 
răn em và cháu”: phải biết “tôn kính 
người thân”, thực hiện “chí lớn nam 
nhi”, lúc nào cũng phải biết lo lắng, 
chăm chỉ học hành, tu dưỡng bản thân 
như “sợ vực sâu, băng mỏng” và đặc 
biệt là rèn giũa phương pháp học tập để 
thành đạt(44). 
Như vậy, trong quan hệ anh - em, các 
nhà nho Việt Nam đều nêu cao tình yêu 
thương và trách nhiệm giúp đỡ, tương 
trợ lẫn nhau. Họ thực hiện những quan 
niệm đó trong đời sống một cách mẫu 
mực. Nếu ở cương vị là anh trai trưởng 
trong gia đình, họ gương mẫu thực hiện 
nghĩa vụ và bổn phận đối với cha mẹ, 
với anh em và với dòng họ. Trách nhiệm 
(40) Sđd, tr. 318. 
(41) Sđd, Ngô Thì Nhậm, tập 2, tr. 334. 
(42) Sđd, tập 1, tr. 219. 
(43) Sđd, tr. 293. 
(44) Sđd, Ngô Thì Nhậm, tập 3, tr. 314-352. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 84
đó không chỉ thể hiện ở việc thay cha 
mẹ nuôi dạy các em mà còn thể hiện ở 
việc đường hướng và khai mở con 
đường tiến thân của các em. Ngô Thì 
Nhậm đã thực hiện vai trò của người 
anh cả trong gia đình với trách nhiệm 
cao nhất lo toan cho các em khi mẹ mất 
sớm, cha còn công cán nơi xa. Tuy vậy, 
sau này khi theo phò nhà Tây Sơn, ông 
cũng bất lực chấp nhận cách chọn 
đường của người em trai là Ngô Thì Chí 
nhất nhất tôn thờ vua Lê Chiêu Thống 
khi đã suy vong. 
Các nhà Nho luôn đưa ra các chuẩn 
mực và bản thân mình nghiêm túc thực 
hiện các chuẩn mực đó. Trong quan hệ 
anh - em, họ luôn nêu cao tinh thần cốt 
nhục và tình yêu thương, trách nhiệm 
với nhau. Khi có vị thế trong xã hội, họ 
luôn mong muốn từ thực tiễn hành xử 
của bản thân trong các mối quan hệ gia 
đình để tác động đến xã hội, sao cho các 
chuẩn mực đó được thực hiện. Với uy 
tín và nhân cách của bản thân, khi có vị 
thế trong triều đình, các nhà nho thường 
cố gắng tác động đến việc điều chỉnh 
hành vi trong các mối quan hệ của 
hoàng gia. Tuy nhiên, do sự tranh giành 
quyền lực của hoàng gia và sự đấu đá 
gây ảnh hưởng của các phe phái trong 
triều đình, những nỗ lực của họ không 
đạt được như mong muốn. Vì thế, xảy ra 
tình trạng anh em ruột thịt mưu hại lẫn 
nhau dẫn đến “cốt nhục tương tàn” và 
thậm chí đẩy các nhà Nho vào hoàn 
cảnh phải gánh chịu hậu quả từ sự thắng 
thế hay thất bại của phe phái này hay 
phe phái kia, của thái tử này hoặc hoàng 
tử kia. Chẳng hạn như các trường hợp: 
Lê Nguyên Long và Lê Tư Tề (con vua 
Lê Thái Tổ); Lê Nghi Dân, Lê Bang Cơ 
và Lê Tư Thành (con của Lê Thái 
Tông); Trịnh Tông và Trịnh Cán (con 
chúa Trịnh Sâm)... Như thế, về phương 
diện chính trị thì các triều đại phong 
kiến Việt Nam, đặc biệt là từ thời Lê sơ 
về sau đều coi Nho giáo là “khuôn vàng 
thước ngọc” trong mọi mối quan hệ từ 
gia đình, triều đình đến xã hội. Các thế 
lực phong kiến ra sức giáo hóa dân 
chúng thực hiện theo các chuẩn mực 
Nho giáo do triều đình quy định nhưng 
bản thân họ, những người sử dụng Nho 
giáo như là một công cụ chính trị thì lại 
vi phạm những chuẩn mực và quy định 
đó. Chỉ riêng vấn đề trách nhiệm trong 
quan hệ anh - em của các triều đình 
Nho giáo chính thống đã thể hiện sự 
mâu thuẫn giữa giáo lý và thực tiễn 
hành xử. Xét đến cùng, vấn đề trách 
nhiệm đều có cơ sở từ lợi ích. Điều đó 
cho thấy, việc các nhà Nho thường 
khuyên anh em tránh việc tranh giành, 
mưu hại nhau mà phải biết nhường 
nhịn, thương yêu nhau không chỉ xuất 
phát từ thực tiễn đời sống bản thân, gia 
đình họ mà cao hơn cả là niềm mong 
muốn triều đình và xã hội luôn thực 
hiện sự thuận hòa, yên vui. 
3. Những bài học từ quan niệm của 
các nhà Nho Việt Nam về trách nhiệm 
trong quan hệ gia đình 
Các nhà Nho Nguyễn Trãi, Nguyễn 
Bỉnh Khiêm và Ngô Thì Nhậm đã quan 
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 85
tâm tương đối đầy đủ về trách nhiệm 
giữa người với người trong gia đình (cha - 
con, chồng - vợ, anh - em), mặc dù mỗi 
nhà Nho đều có cách luận giải khác 
nhau về trách nhiệm trong từng mối 
quan hệ. Họ có nhiều quan niệm tiến bộ, 
nhân văn nhưng cũng không tránh khỏi 
hạn chế trên lập trường phong kiến 
đương thời. Trong mối quan hệ cha - 
con, các họ đều đề cao trách nhiệm của 
người con đối với cha mẹ. Trong mối 
quan hệ chồng - vợ, Nguyễn Trãi chú 
trọng trách nhiệm của người vợ là duy 
trì nòi giống và giữ yên nếp nhà. Nếu 
như Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ 
tính bảo thủ phong kiến thì Ngô Thì 
Nhậm lại có nhiều quan niệm cởi mở và 
sâu sắc về vấn đề tâm sinh lý trong quan 
hệ chồng - vợ. Trong mối quan hệ anh - 
em, tình yêu thương nhau, sự hòa thuận 
và trách nhiệm giúp đỡ, tương trợ lẫn 
nhau được coi là nền tảng để giữ gìn 
“tình cốt nhục”. Những tư tưởng của các 
nhà Nho đó về trách nhiệm trong quan 
hệ gia đình chính là cơ sở cho những nội 
dung giáo dục về trung hiếu, nhân nghĩa 
nhằm vận dụng trong từng mối quan hệ 
hướng tới xây dựng nền tảng đạo đức và 
thực thi trách nhiệm xã hội theo chuẩn 
mực Nho gia. 
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, nhiều 
giá trị truyền thống, trong đó có các 
chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm cá 
nhân, đang dần trở nên bị mai một trước 
lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm ở bộ 
phận không nhỏ người dân thuộc các 
thành phần xã hội. Nếu chúng ta không 
biết “gạn đục khơi trong”, kế thừa có 
chọn lọc và phát huy hiệu quả những giá 
trị trong các di sản tư tưởng và văn hóa 
truyền thống thì xã hội sẽ thiếu chuẩn 
mực đạo đức và thiếu trách nhiệm cá 
nhân trong các quan hệ gia đình và xã 
hội. Trong nỗ lực của cả hệ thống chính 
trị xây dựng gia đình Việt Nam với 
phương châm “kết nối yêu thương” (chủ 
đề của Năm Gia đình Việt Nam 2013 do 
Chính phủ chỉ đạo phát động), dưới đây 
là một số bài học quý báu được rút ra từ 
tư tưởng của các nhà nho Việt Nam. 
Thứ nhất, cần nâng cao trách nhiệm 
của trí thức trong việc đường hướng các 
thành phần xã hội thực hiện những 
chuẩn mực đạo đức truyền thống, trong 
đó có tinh thần, bản lĩnh thực hiện trách 
nhiệm lo việc ích nước lợi dân của các 
trí thức Nho học trước đây. 
Thứ hai, cần khẳng định hơn nữa vai 
trò đặc biệt quan trọng của gia đình đối 
với xã hội. Gia đình không chỉ là nơi 
duy trì nòi giống mà còn là môi trường 
quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và 
giáo dục nhân cách con người, trách 
nhiệm xã hội, bảo tồn và phát huy văn 
hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nền tảng 
cho sự ổn định, phát triển bền vững của 
đất nước. Vì thế, trong các chính sách 
phát triển xã hội, cần đặc biệt quan tâm 
đến xây dựng và phát triển gia đình, coi 
đó là cơ sở, động lực, mục tiêu xây dựng 
các mối quan hệ xã hội tốt đẹp. 
Thứ ba, cần nâng cao vai trò và trách 
nhiệm của cha mẹ trong việc hình thành, 
nuôi dưỡng, giáo dục và hoàn thiện nhân 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 86
cách của con cái. Mỗi bậc làm cha, làm 
mẹ phải thực sự là tấm gương mẫu mực 
về nhân cách và trách nhiệm đối xử văn 
hóa cho người con. Cha mẹ phải có 
trách nhiệm thực sự gần gũi, thương 
yêu, đường hướng, nâng đỡ và dẫn dắt 
cho mỗi bước trưởng thành của con cái. 
Quan niệm của các nhà Nho Việt Nam 
“tích phúc cho con”, “trồng cây đức để 
con ăn” vẫn có ý nghĩa giáo dục cầu nối 
trách nhiệm giữa cha mẹ với con cái. 
Thứ tư, cần nâng cao trách nhiệm và 
bổn phận của người con đối với cha mẹ 
thành đạo lý đứng đầu các chuẩn mực 
đạo đức và văn hóa làm người - đạo 
hiếu. Giáo dục và phát huy những giá trị 
cơ bản của đạo hiếu trong xã hội ngày 
nay càng trở nên có ý nghĩa đối với việc 
xây dựng các thế hệ người Việt Nam có 
đầy đủ các phẩm chất phát triển toàn 
diện. Đó là giáo dục trách nhiệm của 
người con đối với cha mẹ: biết nghe 
theo định hướng giáo dục đúng đắn của 
cha mẹ; biết chăm lo việc học tập để có 
cơ hội làm vinh hiển cha mẹ, rạng danh 
dòng họ, quê hương; biết kính thuận và 
chăm lo, phụng dưỡng cho cha mẹ khi 
về già; biết lo toan chu đáo tang ma và 
phụng thờ kính cẩn cha mẹ khi chết đi; 
biết bảo ban, dạy bảo con cháu gìn giữ 
“danh giáo gia phong”... 
Thứ năm, cần chú trọng tạo dựng 
mối quan hệ vợ - chồng tốt đẹp, lấy đó 
làm đầu mối để xây dựng văn hóa và 
phong tục tốt đẹp từ gia đình đến xã 
hội. Vợ chồng phải có trách nhiệm yêu 
thương, tôn trọng, tin tưởng, thủy 
chung, biết chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, 
tạo sự bình đẳng và hòa thuận, đặc biệt 
phải biết nhường nhịn, tha thứ, khoan 
dung cho các lỗi lầm của nhau để gìn 
giữ hạnh phúc gia đình. Đồng thời, 
trong quan hệ vợ chồng phải tránh thái 
độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong nuôi 
dạy con cái và các công việc gia đình; 
tránh thái độ áp đặt, bạo lực thể chất và 
tinh thần và sự cam chịu, nhẫn nhịn từ 
hai phía. 
Thứ sáu, cần coi trọng việc gìn giữ và 
bồi đắp tình cảm và trách nhiệm anh - 
em. Quan hệ anh - em cần phải đặt tình 
yêu thương, gắn bó như tay chân, phát 
huy tinh thần “trên kính dưới nhường”, 
“hữu ái”, “cung đễ”; biết giúp đỡ, tương 
trợ và bảo vệ lẫn nhau; luôn kính trọng 
và biết chăm lo cho nhau. Đồng thời, 
trong quan hệ anh - em, cần tránh hiềm 
khích, tranh đua, giành giật, đánh, chém, 
giết nhau làm tổn hại đến nền nếp gia 
phong và an ninh xã hội. 
Vấn đề trách nhiệm trong quan hệ gia 
đình đã được Nho giáo hết sức chú 
trọng. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực 
tiễn của những tư tưởng đó đối với ngày 
nay vẫn còn có ảnh hưởng cả tích cực 
lẫn tiêu cực, mặc dầu Nho giáo từ lâu 
không còn là hệ tư tưởng của toàn xã 
hội. Nghiên cứu về trách nhiệm và trách 
nhiệm xã hội trong Nho giáo hiện vẫn 
đang là nhiệm vụ cần thiết, góp phần 
xây dựng ý thức và trách nhiệm công 
dân thời đại toàn cầu hóa trên nền tảng 
bản sắc văn hóa dân tộc, đạo đức xã hội 
của mỗi quốc gia. 
Tư tưởng của một số nhà Nho Việt Nam ... 
 87

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_mot_so_nha_nho_viet_nam_ve_trach_nhiem_trong_qu.pdf