Giáo trình Đường lối Cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Chương mở đầu

ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

1. Đối tượng nghiên cứu:

a. Khái niệm đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam:

Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời

là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng cộng

sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ

bản.

Ngay từ khi ra đời, “thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng đã đề ra

đường lối cách mạng đúng đắn Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng

cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp

khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta -

Đảng của giai cấp công nhân – không ngừng củng cố và tăng cường”.

Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành

được những thắng lợi to lớn:

- Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành độc lập cho dân

tộc, tự do cho nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mối cho nước nhà - độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

- Đánh thắng các thế lực xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước

- Bảo vệ vững chắc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.

- Tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam hội nhập vào trào

lưu chung của thế giới để phát triển mạnh mẽ, vững chắc.

- Góp phần vào tích cực vào sự nghiệp hòa bình, thịnh vượng của nhân dân

thế giới.

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đấu quyết định mọi thắng lợi của cách

mạng Việt Nam. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản trước hết là đề

ra đường lối cách mạng. Hoạch định đường lối là công việc quan trọng hàng đầu của

một chính đảng.

Đường lối cách mạng của Đảng là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách

về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạngViệt Nam. Đường

lối cách mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị

pdf 126 trang Bích Ngọc 03/01/2024 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Đường lối Cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Đường lối Cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Giáo trình Đường lối Cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đường lối cách mạng 
Đảng Cộng Sản Việt 
Nam 
 1
Chương mở đầu 
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
1. Đối tượng nghiên cứu: 
a. Khái niệm đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam: 
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời 
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung 
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng cộng 
sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư 
tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ 
bản. 
Ngay từ khi ra đời, “thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng đã đề ra 
đường lối cách mạng đúng đắn Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng 
cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp 
khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - 
Đảng của giai cấp công nhân – không ngừng củng cố và tăng cường”. 
Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành 
được những thắng lợi to lớn: 
- Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành độc lập cho dân 
tộc, tự do cho nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mối cho nước nhà - độc lập 
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 
- Đánh thắng các thế lực xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước 
- Bảo vệ vững chắc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. 
- Tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam hội nhập vào trào 
lưu chung của thế giới để phát triển mạnh mẽ, vững chắc. 
- Góp phần vào tích cực vào sự nghiệp hòa bình, thịnh vượng của nhân dân 
thế giới. 
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đấu quyết định mọi thắng lợi của cách 
mạng Việt Nam. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản trước hết là đề 
ra đường lối cách mạng. Hoạch định đường lối là công việc quan trọng hàng đầu của 
một chính đảng. 
Đường lối cách mạng của Đảng là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách 
về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạngViệt Nam. Đường 
lối cách mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị 
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tùy theo nội dung, tính chất, 
phạm vi và thời gian Đảng đề ra đường lối cách mạng theo các cấp độ khác nhau. 
Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như: đường lối độc 
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có đường lối cách mạng trong thời kỳ lịch 
 2
sử như: đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội 
chủ nghĩa. Có đường lối vạch ra trong từng giai đoạn như: đường lối cách mạng 
trong thời kỳ vận động dân chủ 1936 – 1939; đường lối cách mạng trong thời kỳ 
khởi nghĩa giành chính quyền (1939 – 1945); đường lối cách mạng miền Nam trong 
thời kỳ chống Mỹ (1954 – 1975); đường lối đổi mới (từ Đại hội VI, năm 1986). 
Ngoài ra còn có đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động như: 
đường lối công nghiệp hóa, đường lối đối ngoại 
 Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi nắm bắt 
đúng quy luật vận động khách quan.Vì vậy trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách 
mạng, Đảng phải thường xuyên chủ động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để 
kịp thời điều chỉnh, phát triển đường lối, thậm chí nếu thấy đường lối không còn phù 
hợp với sự vận động của thực tiễn thì phải thay đổi. 
Đường lối đúng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng, 
quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia dân tộc. Vì vậy, để tăng cường vai 
trò lãnh đạo của Đảng trước hết phải xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn. 
Nghĩa là, đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở kết hợp sáng tạo quan 
điểm lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin; tri thức tiên tiến của nhân loại; 
đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn cách mạng Việt Nam và đặc điểm, xu thế 
quốc tế. Đường lối đó phải nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đường lối 
đúng sẽ đi vào đời sống, soi sáng thực tiễn và trở thành ngọn cờ thức tỉnh, động viên 
và tập hợp quần chúng nhân dân tham gia tự giác phong trào cách mạng một cách 
hiệu quả nhất. Ngược lại, nếu sai lầm về đường lối thì cách mạng sẽ bị tổn thất, thậm 
chí bị thất bại. 
Để hoạch định đường lối cách mạng đúng đắn Đảng phải nắm vững và vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn vận 
động của đất nước và thời đại, tìm tòi nghiên cứu để nắm bắt những quy luật khách 
quan, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, chủ quan, duy ý chí. 
b. Đối tượng nghiên cứu môn học: 
Môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam nghiên cứu sự ra đời 
của Đảng cộng sản Việt Nam và đường lối do Đảng đề ra trong quá trình lãnh đạo 
cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Do đó, đối tượng của môn học là sự ra 
đời của Đảng và hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong tiến 
trình cách mạng Việt Nam - từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng 
xã hội chủ nghĩa. 
Môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam có mối quan hệ mật 
thiết với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và môn Tư tưởng 
Hồ Chí Minh. Vì đường lối của Đảng là sự kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa 
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó, 
nắm vững 2 môn học này sẽ trang bị cho sinh viên cơ sở khoa học và phương pháp 
luận khoa học để nhận thức đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng một cách 
sâu sắc và toàn diện hơn. 
 3
Mặc khác, vì đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ 
phản ánh sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh mà còn là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước sự vận động, biến đổi không ngừng của 
đất nước và quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu đường lối của cách mạng của Đảng 
cộng sản Việt Nam góp phần làm sáng tỏ vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam 
cho hành động của Đảng, đồng thời làm tăng tính thuyết phục của 2 môn lý luận 
chính này. 
2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 
Một là, làm rõ sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam - chủ thể hoạch định 
đường lối cách mạng Việt Nam. 
Hai là, làm rõ quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng của 
Đảng từ năm 1930 đến nay. Trong đó đặc biệt làm rõ đường lối trên một số lĩnh vực 
cơ bản của thời kỳ đổi mới. 
Yêu cầu đặt ra đối với việc dạy và học môn Đường lối cách mạng của Đảng 
cộng sản Việt Nam: 
- Đối với người dạy: phải nghiên cứu đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của 
Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng, bảo đảm cập nhật hệ 
thống đường lối của Đảng. Mặc khác, trong giảng dạy phải làm rõ hoàn 
cảnh lịch sử ra đời và sự bổ sung, phát triển các quan điểm, chủ trương 
của Đảng thể hiện trong nghị quyết. Gắn lý luận với thực tiễn trong quá 
trình giảng dạy. 
- Đối với người học: phải nắm vững nội dung cơ bản đường lối của Đảng 
để từ đó lý giải những vấn đề thực tiễn và vận dụng quan điểm của Đảng 
vào cuộc sống. 
- Đối với cả người dạy và người học: trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ 
thống, sâu sắc đường lối của Đảng cùng với tri thức chuyên ngành của 
mình có thể đóng góp ý kiến cho Đảng về đường lối, chính sách, đáp ứng 
yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng nước ta. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC 
TẬP MÔN HỌC: 
1. Phương pháp nghiên cứu: 
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất là con đường, cách thức và biện 
pháp để đạt tới mục đích. Trong trường hợp cụ thể của môn học Đường lối cách 
mạng của Đảng, phương pháp nghiên cứu được hiểu là con đường, cách thức để 
nhận thức đúng đắn những nội dung cơ bản của đường lối và hiệu quả tác động của 
nó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. 
a. Cơ sơ phương pháp luận: 
Nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam phải dựa 
trên thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan 
 4
điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của 
Đảng. 
b. Phương pháp nghiên cứu: 
Giữa phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối quan hệ biện 
chứng. Phương pháp phải trên cơ sở sự vận động của nội dung. Vì vậy, phương pháp 
nghiên cứu môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, ngoài phương 
pháp luận chung đã nêu trên, đối với mỗi nội dung cụ thể cần phải vận dụng một 
phương pháp nghiên cứu phù hợp. Trong đó, sử dụng phương pháp lịch sử (nghiên 
cứu sự vật, hiện tượng theo trình tự thời gian, theo quá trình diễn biến đi từ phát sinh, 
phát triển đến kết quả của nó) và phương pháp logic (nghiên cứu một cách tổng quát 
nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận) là hết sức 
quan trọng trong nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng. Ngoài ra còn có thể sử 
dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, 
cụ thể hóa, trừu tượng hóa thích hợp với từng nội dung của môn học. 
2. Ý nghĩa của việc học tập môn học: 
Môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam trang bị cho sinh 
viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về quan điểm, đường lối của 
Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa , 
đặc biệt là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới. 
Học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam có ý nghĩa 
rất quan trọng đối với việc bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của 
Đảng, định hướng phấn đấiu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng 
cao ý thức trách nhiệm của sinh viên trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước. 
Qua học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam sinh 
viên có thể vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết những 
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng. 
 5
Chương I 
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG 
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: 
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: 
a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó: 
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai 
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột 
nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. 
Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các 
nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân 
ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra mạnh mẽ ở các 
nước thuộc địa. 
b. Chủ nghĩa Mác – Lênin: 
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển 
mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là 
vũ khí tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa 
tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở 
thành chủ nghĩa Mác – Lênin. 
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu 
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng cộng 
sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu khách qaun đáp ứng cuộc đấu tranh của 
giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. 
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (năm 1848), xác định: 
- Những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong 
trào. 
- Là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước. 
- Họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản. 
Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp công 
nhân cần thực hiện là: 
- Tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân để thực hiện mục đích 
là giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội mới. 
- Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến 
lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công 
nhân. 
- Nhưng Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao 
động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng được mình nếu 
đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã 
hội. 
 6
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân 
và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong 
trào cộng sản. 
Kể từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá váo Việt Nam, phong trào 
yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách 
mạng vô sản dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã 
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp 
ứng đúng hoàn cảnh và nhu cầu của cách mạng nước ta, từ đó sáng lập ra Đảng cộng 
sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt 
Nam. 
c. Cách mạng tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản: 
Năm 1917, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước 
Xô Viết trên nền tảng liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôsơvic Nga 
ra đời. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận 
đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng 
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ 
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong 
những động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản: Đảng cộng sản Đức, 
Đảng cộng sản Hungary (1918), Đảng cộng sản Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, 
Đảng cộng sản Pháp (1920), Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Mông 
Cổ (1921), Đảng cộng sản Nhật Bản (1922) 
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng tháng Mười Nga đã nêu tấm gương 
sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng tháng 
Mười, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng tháng Mười như tiếng sét đã đánh 
thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho 
chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, 
phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là 
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. 
Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của 
Quốc tế cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng 
sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc 
và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 
1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con 
đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. 
Đối với Việt Nam, Quốc tế cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá 
chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc 
không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách 
mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai t ... iên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ 
hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tren cơ sở đó 
Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ dạo công tác đối ngoại. 
- Cơ hội và thách thức 
Về cơ hội: Xu thế hoà bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế 
tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt 
khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường 
quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. 
Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, 
tội phạm xuyên quốc giagây tác động bất lợi đối với nước ta. 
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: 
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác 
 121
động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, 
thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính. 
Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân 
chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta. 
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể 
chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng 
tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức, 
tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ 
lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức 
ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn tuỳ thuộc vào khả năng và nỗ lực của 
chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh 
trước sức ép của các thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách thức, mà 
còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển. 
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại 
Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế 
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của 
Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo them nguồn lực 
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên 
ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp đẻ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, 
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai 
trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào 
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và 
tiến bộ xã hội. 
- Tư tưởng chỉ đạo 
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu 
sắc các quan điểm: 
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng 
của Việt Nam. 
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa 
dạng hoá quan hệ đối ngoại. 
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc 
đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với 
từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô 
lập. 
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân 
biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ 
động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. 
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác 
định hội nhập kinh tês quốc tế là công việc của toàn dân. 
 122
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; 
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn 
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các 
lợi thế so sánh của đất nưởctong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách 
thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và 
Nhà nước. 
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của 
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tanưg cường sức mạnh của 
khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội 
nhập kinh tế quốc tế 
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết 
Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn 
như: 
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền 
vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình 
đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương 
mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi 
để đấu tranh bảo vệ quyền lợi dianh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp 
thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ 
động và tichá cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi 
mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực 
nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý. 
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các 
nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông spháp luật; đa 
dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình 
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế 
công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh. 
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà 
nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy 
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện 
công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý. 
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong 
hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu 
hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp 
điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dắn chiến lược sản 
 123
phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng 
cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm. 
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội 
nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây 
dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ 
văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá 
và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá 
truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao 
lưu với các nền văn hoá bên ngoài. 
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, 
bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn 
chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế 
trên lĩnh vực bảo vệ môi trường. 
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây 
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án 
chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. 
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước 
và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp 
chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân 
dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại 
song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở 
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia 
đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi. 
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối 
với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng 
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách 
hành chính. 
3. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân 
a. Thành tựu và ý nghĩa 
Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế, 
nước ta đã đạt được những kết quả: 
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi 
trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Việc tham gia ký Hiệp định Pải (23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho 
vấn đề Camphuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và 
cộng đồng quốc tế. 
Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10-11-1991); tháng 
11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình 
thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (11-7-1995). 
Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta 
với khu vực Đông Nam Á. 
 124
Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các 
nước liên quan. 
Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai 
thác” ở vìng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa 
ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trang Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới 
trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá. 
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. 
Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chínhthức với tất cả các nước 
lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các 
nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung 
về hợp tác với EU (1995); năm 1999 ký thoả thuận với Trung Quốc khung khổ quan 
hệ “ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; 
tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung Quốc; 
ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương việt Nam – Hoa Kỳ; 
tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (2001); khung khổ quan hệ đối tác 
tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản(2002). 
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trên tổng số hơn 200 
nước trên thế giới. 
Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên 
không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009. 
Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. 
Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc 
tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển 
châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN ( AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn 
hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập 
tổ chức Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt 
Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 
Năm là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học 
công nghệ và kỹ năng quản lý. 
Về mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại 
với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ 
quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng 
lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất kẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 
đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD. 
Việt Nam đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu 
hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ 
USD. 
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu 
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, 
dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các 
ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các 
 125
doanh nghoệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện 
đại. 
Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào 
môi trường cạnh tranh. 
Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới 
quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh 
để tồn tại và phát triển. 
Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ 
các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. 
Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các 
nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh 
tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và 
củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và 
bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc 
tế. 
b, Hạn chế và nguyên nhân 
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội 
nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế: 
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị 
động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước 
lớn. 
Mộy số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở 
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn 
chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ 
chức kinh tế quốc tế. 
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế 
quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. 
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công 
nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ 
tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và 
có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. 
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả 
về số lượng lẫn chất lượng. Cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc té, về 
kỹ thuật kinh doanh. 
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 
đến 2008 mặc dù cond những hạn chế nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan 
trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế 0 xã hội, nền kinh tế Việt 
Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên trường 
quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối 
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng 
đắn và sáng tạo. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_duong_loi_cach_mang_dang_cong_san_viet_nam.pdf