Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học và việc áp dụng tại Việt Nam

ISI và Scopus đã xét chọn chất lượng

của các tạp chí trên thế giới một cách khắt

khe và kỹ lưỡng để đưa vào cơ sở dữ liệu

của họ. Đến nay, danh sách ISI bao gồm

khoảng 10.000 tạp chí; Scopus bao gồm

18.500 tạp chí. Mặc dù có những ý kiến

chưa thống nhất, nhưng ISI và Scopus vẫn

là một trong rất ít cách phân loại được thừa

nhận và sử dụng rộng rãi khi bàn luận về

chất lượng khoa học của các công trình

nghiên cứu. Các tạp chí khoa học thuộc ISI

và Scopus là những tạp chí được cộng đồng

khoa học quốc tế công nhận. Liên Hợp

Quốc, các chính phủ và các tổ chức quốc tế

thường sử dụng thống kê của ISI trong quản

lý và hoạch định các chính sách khoa học,

kỹ thuật.

pdf 5 trang dienloan 4100
Bạn đang xem tài liệu "Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học và việc áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học và việc áp dụng tại Việt Nam

Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học và việc áp dụng tại Việt Nam
 71 
Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học 
và việc áp dụng tại Việt Nam 
Kim Ngọc* 
Tóm tắt: Hiện nay, các tạp chí khoa học xã hội ở Việt Nam đang từng bước đổi mới 
và nâng cấp theo tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể là theo tiêu chuẩn các tạp chí được xếp 
hạng bởi Viện Thông tin khoa học Mỹ (ISI) và Cơ sở dữ liệu (Scopus) của Nhà xuất 
bản Elsevier Hà Lan. 
Từ khóa: Tạp chí khoa học; tiêu chuẩn quốc tế; ISI; Scopus. 
1. Mở đầu 
ISI và Scopus đã xét chọn chất lượng 
của các tạp chí trên thế giới một cách khắt 
khe và kỹ lưỡng để đưa vào cơ sở dữ liệu 
của họ. Đến nay, danh sách ISI bao gồm 
khoảng 10.000 tạp chí; Scopus bao gồm 
18.500 tạp chí. Mặc dù có những ý kiến 
chưa thống nhất, nhưng ISI và Scopus vẫn 
là một trong rất ít cách phân loại được thừa 
nhận và sử dụng rộng rãi khi bàn luận về 
chất lượng khoa học của các công trình 
nghiên cứu. Các tạp chí khoa học thuộc ISI 
và Scopus là những tạp chí được cộng đồng 
khoa học quốc tế công nhận. Liên Hợp 
Quốc, các chính phủ và các tổ chức quốc tế 
thường sử dụng thống kê của ISI trong quản 
lý và hoạch định các chính sách khoa học, 
kỹ thuật. Các thống kê và đánh giá về khoa 
học, công nghệ và kỹ thuật nếu không theo 
ISI thì bị lệch so với thống kê quốc tế. Bài 
viết này trình bày những tiêu chuẩn quốc tế 
của tạp chí khoa học; thực trạng áp dụng 
của các tạp chí khoa học xã hội Việt Nam 
và một số kiến nghị. 
2. Tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí 
khoa học 
Có nhiều tiêu chuẩn quốc tế của các tạp 
chí khoa học, song tựu trung lại có 5 tiêu 
chuẩn chủ yếu sau đây.* 
Thứ nhất, về thể thức xuất bản: - Tên tạp 
chí cụ thể, rõ ràng; - ngôn ngữ thể hiện là 
tiếng Anh (nếu xuất bản bằng ngôn ngữ 
khác thì thông tin thư viện bài viết bao 
gồm: tên tác giả, tóm tắt, từ khóa, tài liệu 
trích dẫn, tham khảo của bài viết thể hiện 
bằng tiếng Anh); - kỳ hạn xuất bản phải 
đúng theo quy định của tạp chí (01 tuần/kỳ, 
01 tháng/kỳ, 03 tháng/kỳ, 06 tháng/kỳ). 
Thứ hai, về hình thức trình bày: - Bìa tạp 
chí ghi rõ các thông tin về số, tập, tháng, 
năm xuất bản, về mã số chuẩn quốc tế 
ISSN, về tên, địa chỉ cơ quan xuất bản tạp 
chí; - không in quảng cáo, ảnh không liên 
quan đến nội dung các bài báo khoa học 
đăng trong tạp chí; - không ghi học hàm, 
học vị của các thành viên Hội đồng Biên 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã 
hội Việt Nam. ĐT: 0913513745. 
Email: Kimngoc_vapec@yahoo.com 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(105) - 2016 
 72
tập tạp chí và các tác giả; - không ghi tên 
người phản biện khoa học (Referee) của bài 
báo được đăng. 
Thứ ba, về Hội đồng Biên tập: Hội đồng 
Biên tập tạp chí gồm các nhà khoa học có 
uy tín khoa học ở trong nước và quốc tế. 
Trong đó, ít nhất hơn 1/3 số thành viên Hội 
đồng Biên tập tạp chí là các nhà khoa học 
có uy tín ở quốc tế. 
Thứ tư, về nội dung khoa học của tạp chí: 
- Tạp chí khoa học đăng tải các bài báo 
khoa học của các nhà khoa học ở trong 
nước và quốc tế; - tạp chí khoa học phải có 
cơ chế phản biện (peer review) bài báo (đây 
là tiêu chuẩn quan trọng nhất không thể 
thiếu được cho một tạp chí khoa học; mỗi 
bài báo có ít nhất hai nhà khoa học có uy tín 
phản biện theo nguyên tắc kín; - dung 
lượng bài báo: tối đa không quá 9.000 từ; - 
bài báo khoa học phải kèm theo các thông 
tin về: tên bài báo với khoảng 15 - 18 từ 
(một số tạp chí yêu cầu tối đa 25 từ), về tác 
giả, về địa chỉ thư tín của tác giả để người 
đọc có thể liên hệ được, về tóm tắt với 
khoảng 200 - 250 từ, về từ khóa với khoảng 
3 - 5 từ, (những từ ngữ chính thể hiện nội 
dung bài viết và có sự hiện diện trong phần 
tóm tắt), về mã số phân loại chuyên ngành 
của bài báo, ngày tòa soạn nhận được bài 
báo, ngày phản biện đánh giá và sửa chữa, 
ngày bài báo được duyệt đăng, về trích dẫn 
(rõ ràng và tìm được trên hệ thống cơ sở dữ 
liệu của ISI; Scopus); - bài báo khoa học 
gồm các phần chủ yếu: giới thiệu (không 
quá 800 từ, vấn đề nghiên cứu là gì phương 
pháp nghiên cứu vấn đề như thế nào), kết 
quả và thảo luận: (nghiên cứu tìm được kết 
quả gì, các kết quả tìm được có ý nghĩa gì), 
kết luận và đề nghị, tài liệu tham khảo. 
Thứ năm, về Website tạp chí: Tạp chí 
khoa học có website riêng hoặc hệ thống 
trực tuyến (Online submission system) 
trong quản lý xuất bản tạp chí; các thông tin 
trên website được cập nhật giống như bản 
in của tạp chí giấy. 
3. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế ở các 
tạp chí khoa học xã hội tại Việt Nam 
Tính đến ngày 21 tháng 3 năm 2016 
Việt Nam có 356 tạp chí khoa học được 
đưa vào danh mục tạp chí tính điểm của 
Hội đồng Chức danh giáo sư Nhà nước 
(HĐCDGSNN). Trong số đó, chỉ có một 
tạp chí Advances in Natural Sciences: 
Nanoscience and Nanotechnology 
(ANSN) của Viện Hàn lâm Khoa học và 
Công nghệ Việt Nam (VHLKH&CNVN) 
được vào danh sách SCIE cuối năm 2015, 
hai tạp chí Vietnam Journal of 
Mathematics của Hội Toán học Việt Nam 
và Acta Mathematica Vietnamica của 
VHLKH&CNVN được vào danh sách 
Scopus. 
Như vậy, trong số 356 tạp chí nói trên, 
Việt Nam chỉ có ba tạp chí khoa học công 
nghệ nằm trong danh sách ISI và Scopus, 
chiếm khoảng 0,84%; không có tạp chí 
khoa học xã hội nào của Việt Nam nằm 
trong ISI và Scopus. Trong khi đó, các 
quốc gia ASEAN khác như Malaysia đã 
có 48 tạp chí, Thái Lan có 21 tạp chí được 
xếp vào Scopus. 
Các tạp chí khoa học xã hội của Việt 
Nam mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới, 
nâng cấp về cả chất lượng, thể thức và hình 
thức trình bày, nhưng cho đến nay việc áp 
dụng các tiêu chuẩn quốc tế của tạp chí 
khoa học trong hệ thống ISI và Scopus vẫn 
Kim Ngọc 
 73 
còn khoảng cách khá lớn. So với các tiêu 
chuẩn quốc tế trên đây, các tạp chí khoa học 
xã hội của Việt Nam chỉ đáp ứng được rất ít 
tiêu chí. Kết quả khảo sát thực tế 100 tạp 
chí khoa học xã hội của Việt Nam (trong 
đó, các cơ sở giáo dục đại học, các Bộ ban 
ngành, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
Minh có 66 tạp chí khoa học; Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam có 34 tạp chí) cụ 
thể như sau: 
Thứ nhất, về thể thức trình bày: 
Ngôn ngữ thể hiện chủ yếu bằng tiếng Việt. 
Có 6 tạp chí khoa học xã hội bằng tiếng Anh, 
gồm: Vietnam Banking Review; Vietnamese 
studies; Vietnam Social Sciences Review; 
Vietnam's Socio-Economic Development 
Review; Vietnam Economic Review; 
Philosophical review. Phần lớn tạp chí khoa 
học xã hội ở Việt Nam xuất bản không đúng kỳ 
hạn xuất bản. 
Thứ hai, về hình thức trình bày: 
Tên một số tạp chí chưa rõ địa chỉ cơ 
quan khoa học chủ quản, tên tiếng Anh của 
tạp chí chưa chính xác. Hiện tại có 13 tạp 
chí trùng tên (cùng có tên là Tạp chí khoa 
học) của 13 cơ sở giáo dục đại học, bao 
gồm: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Đại 
học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Sư 
phạm Tp. Hồ Chí Minh; Đại học Huế; 
Trường Đại học Mở Tp. Hồ Chí Minh; 
Viện Đại học Mở Hà Nội; Trường Đại học 
Hồng Đức; Trường Đại học Cần Thơ; 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; Trường 
Đại học Vinh; Trường Đại học Tây 
Nguyên; Trường Đại học Hà Tĩnh. Thực 
trạng trên rất khó để phân biệt khi truy cập 
trên internet. Nhiều thông lệ quốc tế khác 
về hình thức cũng chưa được ban biên tập 
các tạp chí khoa học nghiên cứu áp dụng. 
Tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt 
Nam: 100% tạp chí có chỉ số ISSN, tên cơ 
quan xuất bản cụ thể rõ ràng; 03 tạp chí 
không ghi học hàm, học vị của Hội đồng 
Biên tập (chiếm 1,7%, gồm Tạp chí Khảo 
cổ học; Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội; 
Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á); 
phần lớn tạp chí không in quảng cáo. 
Thứ ba, về tổ chức Hội đồng Biên tập: 
Có 02 tạp chí tổ chức Hội đồng Biên tập 
tạp chí theo tiêu chuẩn quốc tế. Hội đồng 
Biên tập gồm các nhà khoa học có uy tín ở 
trong nước và quốc tế (chiếm 1/3 số thành 
viên): Tạp chí Kinh tế và Phát triển - 
Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Chuyên 
san Kinh tế và Kinh doanh - Trường Đại 
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Trong khi đó, tại Viện Hàn lâm Khoa học 
xã hội Việt Nam, 100% Hội đồng Biên tập 
các tạp chí khoa học là các nhà khoa học 
trong nước. 
Thứ tư, về nội dung khoa học của tạp chí: 
Tạp chí đăng tải bài báo khoa học phần 
lớn là của các nhà khoa học trong nước. Rất 
ít tạp chí đăng tải bài của các học giả nước 
ngoài (nếu có đăng, chủ yếu ở mục thông 
tin khoa học). 
Thông tin, kết cấu bài viết của các tạp 
chí khoa học xã hội ở Việt Nam về cơ bản 
chưa tuân thủ theo thông lệ quốc tế. Các tạp 
chí thuộc các cơ sở giáo dục đại học đã ghi 
đủ các dữ liệu bài viết, gồm tóm tắt, từ khóa 
và kết cấu bài gồm 4 mục chính theo thông 
lệ quốc tế. Có 4 tạp chí ghi thông tin ngày 
nhận bài, chỉnh sửa bài và ngày đăng bài 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(105) - 2016 
 74
(gồm: Tạp chí Kinh tế và Phát triển - 
Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Chuyên 
san Kinh tế và Kinh doanh - Trường Đại 
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạp 
chí Khoa học Đại học Huế; Tạp chí Phát 
triển và hội nhập, Trường Đại học Kinh tế - 
Tài chính). Hầu hết các tạp chí khoa học 
của các Bộ ban ngành không ghi tóm tắt, từ 
khóa và không kết cấu bài viết gồm 4 phần 
theo thông lệ quốc tế. Tại Viện Hàn lâm 
Khoa học xã hội Việt Nam, chỉ có 13 tạp 
chí có tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh, 
hoặc chỉ có tiếng Anh, chiếm 46%; 10 tạp 
chí có từ khóa, chiếm 35,7%; 7 tạp chí có 
lời mở đầu, kết luận, chiếm 25%; 01 tạp chí 
ghi ngày nhận bài, chỉnh sửa và ngày đăng 
bài, chiếm 0,3% (Tạp chí Tâm lý học). 
Nhiều tạp chí khoa học xã hội của Việt 
Nam không có cơ chế phản biện khoa học 
bài báo. Đây là điểm khác biệt lớn nhất 
giữa tạp chí khoa học xã hội của Việt Nam 
với các tạp chí khoa học quốc tế. Khi tác 
giả gửi bài đến, một vài người trong Hội 
đồng Biên tập xem qua và quyết định 
đăng hay không. Chẳng những đăng bài 
mà còn phải trả nhuận bút cho tác giả. Có 
lẽ do cách làm như thế nên đại đa số 
những bài báo trên các tạp chí này có chất 
lượng khoa học rất thấp. Có rất nhiều lỗi 
và sai sót cơ bản trong những bài báo. 
Cách trình bày hết sức sơ sài và tùy tiện, 
làm cho người đọc thấy hình như tác giả 
không tôn trọng độc giả. 
 Nguyên nhân của thực trạng trên có 
nhiều, song, có hai nguyên nhân cần lưu 
tâm: thứ nhất, Việt Nam chưa có khung khổ 
quy định chung về thể thức xuất bản, hình 
thức trình bày nội dung bài báo cho các tạp 
chí khoa học; thứ hai, kinh phí cho hoạt 
động tạp chí hạn hẹp. 
Việc không đáp ứng được những tiêu 
chuẩn quốc tế của tạp chí khoa học, đặc biệt 
là tiêu chí tổ chức Hội đồng Biên tập và cơ 
chế phản biện bài báo đã giải thích rõ lý do 
tại sao những công trình khoa học đăng trên 
tạp chí khoa học xã hội của Việt Nam 
không có nhiều người đọc, ngay cả những 
người trong giới khoa học xã hội cũng ít 
đọc và số trích dẫn càng ít hơn. 
Đây cũng chính là những thách thức lớn 
nhất cho các tạp chí khoa học xã hội Việt 
Nam trong hội nhập tiêu chuẩn quốc tế. 
4. Một số kiến nghị 
Để xây dựng tạp chí khoa học xã hội của 
Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế, cần thực 
hiện một số việc sau: 
Thứ nhất, xây dựng lộ trình và có trọng 
tâm xây dựng trước một số tạp chí theo 
chuẩn quốc tế, bắt đầu từ việc nâng cao chất 
lượng nội dung bài viết. 
Thứ hai, tổ chức Hội đồng Biên tập theo 
tiểu chuẩn quốc tế, xây dựng quy chế và 
kinh phí hoạt động của Hội đồng Biên tập. 
Thứ ba, xây dựng quy trình tiếp nhận bài 
viết, phản biện, biên tập, xuất bản, phát 
hành, điều quan trọng là các tạp chí chú 
trọng yêu cầu phản biện khoa học thật 
nghiêm túc (có thể ở trong hoặc ngoài nước 
một cách phù hợp) để nâng cao chất lượng 
khoa học của bài báo. 
Thứ tư, xây dựng một cơ sở dữ liệu của 
quốc gia, liệt kê tất cả những bài báo khoa 
học đã công bố trên các tạp chí khoa học xã 
hội của Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ 
Kim Ngọc 
 75 
XX, hay thậm chí thế kỉ XIX (nếu có) đến 
nay phục vụ cho nghiên cứu, trích dẫn. 
5. Kết luận 
Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu 
rộng, trong đó có các tạp chí khoa học xã 
hội của Việt Nam. Các tạp chí khoa học xã 
hội của Việt Nam không thể đứng ngoài 
quỹ đạo hội nhập các tiêu chuẩn quốc tế của 
tạp chí khoa học. Nếu không có sự chuẩn 
bị, không có định hướng thì không bao giờ 
xây dựng được những tạp chí của chúng ta 
theo chuẩn quốc tế. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (2016), 
Công văn số 37/HĐCDGSNN về Yêu cầu về 
chất lượng khoa học và thể thức đăng bài 
trong các tạp chí khoa học được tính điểm, 
ngày 4 tháng 4. 
[2] Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (2016), 
Tài liệu hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn 
chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2016, 
Nxb Bách khoa, Hà Nội. 
 [3] Trần Văn Nhung (2016), ”Một vài thông tin 
về mã số chuẩn quốc tế cho tạp chí và sách, về 
sự phân loại tạp chí khoa học và cách trình bày 
một bài báo trong tạp chí khoa học”, Tài liệu 
hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức 
danh giáo sư, phó giáo sư năm 2016, Nxb 
Bách khoa, Hà Nội. 
[4] Eugene Gafield, “Citation Indexes for Science: A 
New Dimension in Documentation through 
Association of Ideas”, Science, 122(3159), 1955. 
[5] Adler, R., Ewing, J., Taylor, P., “Citation 
Analysis”, Statistical Science, 24(1), 1-14, 2009. 
[6]iii
uan/071229_nguyenvantuan-
nguyendinhnguyen_chatluong-nckh-
vietnam.htm 
[7]i 
bin/jrnlst/jlsubcatg.cgi?PC=K 
[8]  
[9]  
[10]iii
/ThamKhaoTapChi/View_Detail.aspx 

File đính kèm:

  • pdftieu_chuan_quoc_te_cua_tap_chi_khoa_hoc_va_viec_ap_dung_tai.pdf