Tiểu luận Học thuyết về hình thái kinh tế, xã hội và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn .Để đạt những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước , mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước.
Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông , muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yêú cần phải đổi mới . Đây là một đề không mới nhưng nó đề cập đến những vấn đề cấp thiết của nước ta hiện nay , đụng chạm trực tiếp đến cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nước ta . Nó giúp chúng ta rất nhiều trong việc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định : "Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc , dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam . Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp cong nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta .
Chính vì vậy mà em chọn đề tài "Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hôi và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam " . Đây là một đề tài hay, có nội dung phức tạp và rộng . Do trình độ có hạn , nên không tránh khỏi khiếm khuyết trong việc nghiên cứu . Rất mong được đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn .
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Học thuyết về hình thái kinh tế, xã hội và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn .Để đạt những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước , mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông , muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yêú cần phải đổi mới . Đây là một đề không mới nhưng nó đề cập đến những vấn đề cấp thiết của nước ta hiện nay , đụng chạm trực tiếp đến cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nước ta . Nó giúp chúng ta rất nhiều trong việc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định : "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc , dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam . Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp cong nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta . Chính vì vậy mà em chọn đề tài "Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hôi và vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam " . Đây là một đề tài hay, có nội dung phức tạp và rộng . Do trình độ có hạn , nên không tránh khỏi khiếm khuyết trong việc nghiên cứu . Rất mong được đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn . I. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI MÁC - LÊNIN. Chúng ta đều biết , trong lịch tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không ít cách tiếp cận , khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội . Xuất phát từ những nhận thức khác nhau , với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau . Chúng ta cũng đã quên với khái niệm thời đại đồ đá , thời đại đồ đồng , thời đại cối xay gió , thời đại máy hơi nước .và gần đây là các nền văn minh : văn minh nông nghiệp , văn minh công nghiệp , văn minh hậu công nghiệp . Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử , các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch sử xã hội , đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học thuyết "hình thái kinh tế xã hội " . Hình thái kinh tế - Xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử , học thuyết hình thái kinh tế- xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng , tức toàn bộ các yếu tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại : Chính trị , kinh tế, văn hoá , xã hội , khoa học , kỹ thuật ..Do đó , nó chỉ ra bản chất của quá trình phát triển của xã hội loài người . Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao đó là : Hình thái kinh tế cộng sản nguyên thuỷ , chiếm hữu nô lệ , phong kiến , tư bản chủ nghĩa và ngài nay đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử , có sự ra đời phát triển và diệt vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi , chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế . Đó là khi phương thức sản cũ đã nên lỗi thời , hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn , có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất . Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất . 1.Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất , là biểu hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định . Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất ( đặc biệt là công cụ lao động ) với người lao động , với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp . Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương thức sản xuất . Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất , quan hệ tổ chức quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm . Trong quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác . Quan hệ sản xuất do con người tạo ra , song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người . Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa dạng trong hình thức biểu hiện . Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau biểu hiện ở chỗ : Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển . Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ . Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiênj đòi hỏi khách quan , phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ , thay thế bằng quan hệ sản xuất mới . Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất ( ổn định tương đối ) quan hệ lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ( không phù hợp ). Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại với lực lượng sản xuất , quy định mục đích xã hội của sản xuất , xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích , từ đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Sự tác động trử lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thong qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản . Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như sự thống nhất giưã hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội . Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác - Anghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất . Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất , mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là mâu giữa các giai cấp đối kháng . Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triểncủa lực lượng sản xuất , loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội , dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội . Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu lực lượng sản xuất đã mang những iếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong kiến. Quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp không chứ đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất của Tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất phong kiến . Trong lòng nền sản xuất tư bản , lực lượng sản xuất phát triển , cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao . Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa . Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xáo bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa , xác lập quan hệ sản xuất mới , quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác , do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn cuả mình , loài người thay đổi quan hệ sản xuất của mình . Phù hợp có thể hiểu là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động , bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng . Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất , tinh thần với người lao động . Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội .Do tác động của quy luật này ,xã hội phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất ,hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội .Quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế , phi kinh tế . 2.Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng . Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội , những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tảng của thượng tầng , đó là những quan điểm tư tưởng chính trị , pháp quyền , đạo đức , tôn giáo , nghệ thuật , triết học và các thể chế tương ứng như Nhà nước Đảng phái , giáo hội và các đoàn thể quần chúng . Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới là quan hệ mần mống của xã hội. Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế khác nhau , mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các thành phần kinh tế khác . Trong xã hội có giai cấp đối kháng , giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng , từ mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội , trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ mái quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất . a, Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng . Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng được thể hiện ở một số mặt: Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó ( giai cấp nào giữ vị trí thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác ) . Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng . Mâu thuẫn giai cấp , mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hhọi và đời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế , từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng . Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng . Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác . Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới . Sự thống trị của giai cấp cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ , thay vào đó bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị mới .Đương nhiên không phải "khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng " . Trong quá trình hình thành và phát triển của kiến thượng tầng mới , nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó .Vì vậy giâi cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lí để sử dụng nó xây dựng xã hội mới . b, Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển , chúng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ , xây dựng bảo vệ củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng mới . Trong xã hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng , các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng đều bị nhà nước pháp luật chi phối . Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái lại kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới , chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội . Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội . Ngược lại nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội , những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm muộn cũng bị cách mạng khắc phục về cơ bản , bản chất giữa cơ sở hạ tầng và cơ sở thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác dụng mạnh mẽ trở lại . Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến trúc thượng tầng , nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến thượng tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh . II . SỰ VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO VẤN ĐỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM . Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên , phần tiếp theo của đề tài xin phép được đi sâu vào vấn đề "hình thái kinh tế xã hội và vấn đề quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam" . Loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế . Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn , văn minh hơn hình thái trước . Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ ) con người chỉ biết săn bắn hái lượm , ăn thức ăn sống cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên .Có thể nói đâi là thời kỳ sơ khai một thời kỳ mông muội của loài người . Sau đó đến hình thái kinh tế xã hội : Chiếm hữu nô lệ , con người đã văn minh hơn họ không còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải : xã hội xuất hiện chế độ tư hữu , bắt đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo .Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ , quan hệ giữa hai giai cấp ... ộ các xí nghiệp tư nhân . Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năngnlực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất .Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố con của người . Một hạn chế nữa là chúng ta mắc phải đó là ta đã phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường . Thực chất ở đây cũng là do những nhận thức sai lầm , chủ quan nóng vội mà chúng ta đã cho rằng kinh tế nước ta phải tuân theo quy luật giá trị sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường mà không hiểu điều quy luật nhất đó là : nước ta mới ở giai đoạn của thời kỳ quá độ . 3.Một số biện pháp Để thực hiện mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh , đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố , hoàn thiện quan hệ sản xuất chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất , vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng xuất cao thì không thể nói đến công nghiệp hoá xã hội . Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc CNH - HĐH ở Việt Nam . CNH - HĐH đưa đất nước vượt qua một chặn đường dài đi lên công nghiệp xã hội tính được tình trạng chung đó là sự tụt hậu ngài càng xa của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. CNH - HĐH là để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội , CNH - HĐH đất nước thì có tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế và sự lạc hậu về tiến bộ xã hội . Khó khăn: Một vấn đề nổi cộm " chúng ta còn quá lạc hậu , cần phải trang bị mới hiện đại ". Về nông nghiệp : cho đến nay chúng ta còn vẫn trong tình trạng lạc hậu về năng suất vẫn thấp ( một lao động trong nông nghiệp trung bình nuôi 2,5-3 người so với ở Mỹ , một lao động nông nghiệp nuôi 30 - 40 người ) .Nông nghiệp chưa thể là chỗ dựa để nâng nhu cầu bình quân đầu người một cách đáng kể nông sản hàng hoá vẫn chưa trở thành nguồn chính mà ta có thể dựa vào đó để xây dựng công nghệ và cơ cấu hạ tầng .Thuế thu nhập từ nông nghiệp không đáng kể . + Do chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên đã gặp nhiều thử thách gay gắt . Kết cấu kinh tế ngài càng tăng giữa các nước giàu nghèo . Ta mất dần lợi thế các tài nguyên và lao động . Sự chênh lệch khá lớn về mức sống . Kết cấu khoa học - kỹ thuật ngài càng lớn . Thuận lợi: Nhờ chuyển giao công nghệ nên ta chỉ việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ . Có thể chọn công nghệ mới , phù hợp để phát triển . Ta có những bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước , không mắc phải sai lầm như những nước đó . Dễ hợp tác để tiến hành công nghiệp hoá . Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào , con người Việt Nam thông minh sáng tạo lại có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước thông qua pháp luật . Chính sách cụ thể của Nhà nước Sự phát triển của các nước trên thế giới và sự nghiệp đổi mới ở nước ta củng cố cho chúng ta những bài học lớn về nhận thức . Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn - quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít - cũng như nguyên tắc thống nhất giữa lí luận thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin . Mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ VII của Đảng đề ra chính là sự cụ thể hoà hợp thống nhất về hinhf thức kinh tế - xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội chủ nghĩa . Ta phải luôn nhận thức vận dụng đúng đắn sáng tạo hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ bản chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng . Sự đổi mới với tính chất mới mẻ khô khan và phức tạp của nó - đòi hỏi phải có lí luận khoa học soi sáng . Song phải kết hợp hài hoà giữa lí luận và thực tiễn . Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã nhận định và đánh giá tình hình một cách đúng đắn , điều này ở Đại hội Đảng khoá VII đã nêu rõ ràng : Trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống khoa học - công nghệ trên thế giới ngài một gia tăng thì công nghiệp hoá phải gắn liền với HĐH , nâng cao trình độ công nghệ "Tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta tập trung trước hết cho việc tiếp thu các thành tựu khoa học của thế giới , ứng dụng mở rộng và làm chủ . Đồng thời phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi nhọn phát triển , tìm cách đi tắt , đón đầu tạo nên lợi thế cạnh tranh cả về phượng diện kinh tế và công nghiệp tạo nên sự phát triển nhanh và nắm vững của nền kinh tế ". a, Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới . Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngài nay không thể hiểu như trước kia . Công nghiệp hoá , hiện đại hoá ngài nay không phải đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ nghành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hiện đại hoá tất cả các nghành kinh tế quốc dân . Từ đó tạo ra được sự cân đối hài hoà giữa các nghành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh . Phương hương cụ thể Đầu tiên cần phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu " công - nông nghiệp và dịch vụ " phù hợo với xu hướng "mở " của nền kinh tế . Vấn đề này được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lí trong các nghành kinh tế và điều chỉnh hợp lí với cơ cấu đầu tư . b) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn . (Sự cần thiết ) : Nước ta hiện nay là một Nhà nước so với 80% dân cư đang sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp . Đây là một địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo .Vì vậy , phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta . Song nông nghiệp không tự mình thâi đổi , đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ , không có khả năng tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp , dịch vụ .chỉ có như vậy sẽ xoá bỏ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập bình quân . Chính sách đường lối phát triển : Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp đến hàng mạnh ra xuất khẩu . Nhiều người cho rằng đâi là hướng sai lầm nhưng thực tế không vậy . Nông nghiệp là nghành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm của nó cần thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm đủ trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên những công cụ sản phẩm chỉ trong nước còn với xã hội là một lẽ đương nhiên bởi ta không thể nhập lương thực mà lại không tự sản xuất được ra . Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học- công nghệ để đem lại chất lượng sản lượng cao cho sản phẩm . Công nghiệp nhẹ cần được phát triển trong lĩnh vực nong nghiệp là công nghệ để sản xuất thuốc trừ sâu phân bón vi sinh không gây độc hại . Cơ khí hoá là điều kiện dưa kỹ thuật máy móc vào sản xuất nông nghiệp . c) Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế : Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá . d) Phát triển kinh tế nhiều thành phần : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần kinh tế . Sau những năm mở cửa , nền kinh tế cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển không như trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường chúng bổ xung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu quả đẩy đất nước ta lên một nấc cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước . * Một số vấn đề cần lưu ý : Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng , do đó nước ta khi tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật vận động đó , muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta đòi hỏi các nội dung của công nghiệp hoá cũng như phải thường xuyên thay đổi và bổ sung . Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản xuất để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất , xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng . Nước ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên , là động lực căn bản để phát triển xã hội , lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và xem đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá . Công nghiệp hoá , hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của tất cả thành phần kinh tế , trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo , cán bộ và công chức nhà nước nói chung , cán bộ kỹ thuật ,cán bộ quản lý kinh tế nói riêng là phương pháp chủ yếu và quyết định . Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xây dựng nhiệm vụ chiến lược chế độ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng thành thạo chuyên môn nghiệp vụ có khả năng và trình độ để đáp ứng nhu cầu của tình hình nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá . Trong quá trình tiến hành cách mạng có những lúc thuận lợi , bên cạnh đó rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và phương pháp khoa học sáng tạo , phải có quan điểm toàn diện phát triển đưa chính sách cụ thể là thực tiễn . Luôn luôn để nâng cao vai trò thực tiễn nhiều không coi nhẹ lí luận .phải luôn xây dựng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng của Đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp nước ta , cho cách mạng nước ta , cho dân tộc , phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước ta , đưa nước ta lên xã hội chủ nghĩa . Một điều quan trọng nữa là phải khắc phục một số tư tưởng hữu khuynh không tiến hành cách mạng , tả khuynh chủ quan nóng vội , duy ý chí.. Bệnh chủ quan , duy ý chí là sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây , gây tác hại nghiêm trọng với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa . Sai lầm là ở lối suy nghĩ và hình thức giản đơn , nóng vội , chạy theo nguyện vọng chủ quan thể hiện trong một số chủ trương và chính sách xã hội với hiện thực khách quan . Để khắc phục bệnh này cần sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp . Trước hết là đổi mới tư duy , lý luận , nâng cao nhân lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng .Trong hoạt động trực tiếp phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan . Phải đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị , chống bảo thủ , trì trệ quan liêu. Song để làm được tất cả những chính sách đề ra , phải có một Nhà nước chuyên chính vô sản , một nhà nước thực sự của dân ,do dân, vì dân . Cho đến nay , không phải mọi vấn đề về quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoá ở nước ta đều được hoàn toàn làm rõ , thậm chí nhiều vấn đề còn trở nên phức tạp hơn so với trù liệu ban đầu . Chẳng hạn làm sao kết hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội ; quan hệ giữa chế độ kinh tế trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần với chế độ chính trị ; làm sao cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo ; các chặng đường của thời kỳ quá độ các bước đi của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với nông nghiệp nong thôn Để làm sáng tỏ những vấn đề chắc chắn phải vừa vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đổi mới trong thực tiễn , tiến hành tổng kết thực tiễn , khắc phục các khuynh hướng sai lầm như giáo điều , xét lại , chủ quan duy ý chí . Đó cũng là phải vận dụng sáng tạo quán triệt hơn nữa phép biện chứng Mác xít trong quá trình đổi mới. KẾT LUẬN Có một vài nhà báo đã nhận định về nước ta rằng Việt Nam " Con Rồng nhỏ đang chuyển mình ". Theo em , nói như vậy hoàn toàn không phải là sai . Nước ta với biết bao tiềm năng sẽ trở thành giàu mạnh nếu phát triển đúng hướng của những con đường duy nhất đó là tiến lên chủ nghĩa xã hội như Đảng và Nhà nước ta đã chọn thông qua việc công nghiệp hoá kết hợp khôn ngoan với hiện đại hoá là một cơ hội để nước ta phát huy hết khả năng , khẳng định vị trí của mình trong khu vực và trên thế giới . Và quả thực từ một nước rất nghèo nàn lạc hậu đến nay nước ta không còn là nước nghèo trong các nước nghèo nữa , chúng ta đã đạt được những thành quả nhất định trong nhiều lĩnh vực . Song sẽ là ảo tưởng nếu mù quáng cường điệu và chỉ nhìn vào những thành tựu có được mà không tiếp tục nhận thức tình hình thực trạng nước ta so với nước khác tiến bộ hơn để vận động đưa ra những giải pháp đúng đắn thì nước ta sẽ tiéep tục tụt hậu và rơi vào tình trạng đói nghèo . Hiện tượng con rồng châu á không thể xẩy ra nếu còn rất nhiều khó khăn , lạc hậu , nợ nần chồng chất , bùng nổ dân số , xung đột triền miên về tôn giáo và sắc tộc Cho nên một lần nữa đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt , linh hoạt trong sự đổi mới nhưng luôn luôn phải bám sát học thuyết hình thái kinh tế xã hội Mác - Lênin . Tóm lại , học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học . Trong điều kiện hiện nay , học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị . Nó đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn . Học thuyết đó được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự ngiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nghị quyết đại hội IX đã chỉ ra :" Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhàm : Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người , năng lực khoa học và công nghệ , kết cấu hạ tầng , tiềm lực kinh tế , quốc phòng , an ninh được tăng cường ; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản ; vị thế của nước ta tên trường quốc tế được nâng cao ". Tài liệu tham khảo 1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH . NXB Sự thật Hà Nội , 1991 . 2. Các báo và tạp chí : Tạp chí triết học . Số 03 , 04 , 05 , 06 năm 1999. Tạp chí triết học . Số 03 / 1996 . Nghiên cứu lý luận . Số 05/ 1999 . 3. C. Mác và F . Ăngen tuyển tập . NXB Sự thật Hà Nội , 1980. 4.Giáo trình triết học Mác - Lênin . 5. Giáo trình kinh tế chính trị . 6. V .I .Lênin toàn tập . NXB tiến bộ Maxcơva , 1982 . PHẦN MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU I. Hình thái KTXH- Mác Lênin : 2 1. Lực lượng SX và quan hệ sản xuất: 3 2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: 5 a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: 5 b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc 6 thượng tầng: II. Sự vận dụng hình thái KT- XH vào vấn đề quá độ lên CNXH ở VN: 7 1. Mục đích : 8 2. Thực trạng sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam: 10 3. Một số biện pháp: 11 * Một số vấn đề cần lưu ý: 15 III. Kết luận : 17 IV. Tài liệu tham khảo: 18
File đính kèm:
- tieu_luan_hoc_thuyet_ve_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_va_van_de_q.doc