Tiểu luận Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng

Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện.

Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để. Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu.

Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin được trình bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng.

Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng

Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các đồng chí học viên lớp cao học Văn hoá học. Em xin chân thành cảm ơn!

 

doc 31 trang Bích Ngọc 03/01/2024 1980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng

Tiểu luận Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để. Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu.
Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin được trình bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng.
Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các đồng chí học viên lớp cao học Văn hoá học. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2006
I. PHÂN BIỆT PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong tư duy. Phương pháp biện chứng là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển vô cùng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Trái lại, phương pháp siêu hình là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong trạng thái cô lập, phiến diện với tư duy cứng nhắc. Lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự việc cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không rhấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình bằng cách xem xét các sự vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn rhấy cả sự hình thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học. Cuộc khủng hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình là một minh chứng cho hạn chế của phương pháp siêu hình. Những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới và khi đó, phép siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ cho phép biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành quả phát triển cao nhất và khoa học nhất của tư duy biện chứng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu sự hình thành phép biện chứng qua từng thời kỳ lịch sử nhất định, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ phục hưng và cận đại, tiếp đó hình thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và sau cùng hoàn chỉnh ở phép biện chứng duy vật Mácxít.
II. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG THỜI KỲ CỔ ĐẠI
Ba nền triết học tiêu biểu của thời kỳ cổ đại được biết đến là nền triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại. 
1. Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại 
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu Á có điều kiện khí hậu hết sức khắc nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó Ấn Độ cổ đại trở thành một nền văn minh khép kín. Các tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội Ấn Độ thường xuyên đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù riêng của triết học Ấn Độ cổ đại. Có thể nói, triết học Ấn Độ tuy còn ở trình độ sơ khai song nó đã chứa đựng các yếu tố về bản thể luận và những tư duy biện chứng. Các tư tưởng biện chứng mộc mạc, thô sơ được tập trung thể hiện trong một số trường phái triết học Ấn Độ cổ đại sau:
a. Triết học Samkhya
Theo phái Samkhya, Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn, vô định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Prakriti không ngừng biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
b. Triết học Jaina
Tư tưởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tương đối. Theo đó, tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái không vĩnh hằng luôn biến đổi là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế giới bao quanh con người vừa vận động lại vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn mà con người cần phải chấp nhận.
c. Triết học Lokayata
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới được tạo ra từ bốn nguyên tố vật lý: đất, nước, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại, tự vận động trong không gian mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con người. Đây là trường phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội.
d. Triết học Phật giáo
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô thường và nhân quả.
- Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đưa ra những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau.
- Vô thường nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt.
Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình thành các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina.
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào bậc nhất thế giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân loại thời cổ. Triết học Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị xuất phát từ hiện trạng xã hội biến động đương thời. Chính vì vậy trong thời kỳ này, các triết gia Trung Quốc thường đẩy sâu quá trình suy tư về các vấn đề thuộc vũ trụ quan và biến dịch luận. Song cần phải khẳng định rằng, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại là chủ nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trường phái triết học sau:
a. Trường phái triết học Âm Dương gia
Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ đại mang tinh thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện chứng là học thuyết triết học về sự biến đổi). Điển hình cho tư duy này là học thuyết Âm - Dương. Nội dung triết học căn bản của phái Âm -Dương là lý luận về sự biến dịch, được khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi là sự thống nhất của Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương còn thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về sinh thành, về vận động.
Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ và chu kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất cụ thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia
Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận giải về Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai quan điểm về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục là nói lên tính tuần hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối. Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá theo luật quân bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn.
Trang Tử cũng là một nhà tư tưởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của Trang Tử có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhưng thế giới quan của ông về cơ bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về Đạo), Trang Tử cho rằng Đạo trời là tự nhiên vốn có không ai sinh ra. Vạn vật đều sinh ra từ Đạo và biến hoá một cách tự nhiên.
c. Triết học của phái Danh gia
Các tư tưởng biện chứng của phái Danh gia trước hết được thể hiện qua thuyết tương đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn biến đổi, chúng có tính tương đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển hoá qua lại với nhau. Nhưng do tuyệt đối hoá tính chất tương đối của sự vật, thực tại, tách rời nó với những điều kiện, những mối liên hệ cụ thể nên về cơ bản, triết học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tương đối luận.
Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tư tưởng biện chứng tự phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự vận động, sự thống nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất và khác biệt. Trong đó, Công Tôn Long đưa ra những mệnh đề có tính chất ngụy biện, chiết trung như: ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có lông, bóng chim bay không hề động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính chất tương đối, sự luôn biến đổi của sự vật, hiện tượng trong hiện thực, phóng đại một cách phiến diện mặt tương đối của sự vật và đưa đến kết luận tương đối chủ nghĩa thì Công Tôn Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính không biến đổi và sự tồn tại độc lập của những khái niệm so với cái được phản ánh trong khái niệm ấy. Công Tôn Long đã tách rời cái chung, cái phổ biến ra khỏi những cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ nhận sự tồn tại của những cái cụ thể trong hiện thực.
d. Triết học của phái Pháp gia
Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị thần quyền, Hàn Phi được coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Các tư tưởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy vật và biện chứng tự phát về lịch sử và phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn Phi cho rằng lịch sử xã hội loài người luôn biến đổi, từ trước tới nay không có chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít. Do vậy, khi bà ... chất của các quá trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự thay thế thế giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật. Chính Mác và Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con người. Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, đó là cho ra đời một hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới chỉ dừng lại ở thế giới quan duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm về xã hội thì đến giai đoạn Mác - Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây dựng dựa trên lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội. Hơn thế, tính đúng đắn của khoa học Mácxít luôn được minh chứng bởi các thành tựu vượt bậc của khoa học thời đại.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình phát triển liên tục không ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848 đánh dấu bước chuyển của Mác và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đánh dấu bước chuyển đó là tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói đầu” vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện chứng sâu sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia đình thần thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên Mác và Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về Phơbách”, qua đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật Phơbách cũng như những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung. Đó là sự phê phán có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Năm 1845 - 1846, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đánh dấu bước tiến mới của Mác và Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ăngghen được viết vào năm 1876 - 1878 là một trong những tác phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học Mác. Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ăngghen trình bày hoàn chỉnh thế giới quan Mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Qua tìm hiểu một số tác phẩm kinh điển của Mác - Ăngghen có thể thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình tự đấu tranh gian khổ để từ bỏ lập trường triết học duy tâm chuyển sang lập trường triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Nó không chỉ khái quát các thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật chung nhất của thế giới, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát những mối liên hệ phổ biến của thế giới(tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy, quán triệt quan điểm toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
- Nguyên lý về phát triển phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi hành động và suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo và phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
- Các cặp phạm trù: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất-hiện tượng giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn bộ các mối liện hệ theo một hệ thống nhất định.
- Các cặp phạm trù: nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát triển là một quá trình tự nhiên.
- Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
- Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự biến đổi về chất, thông qua bước nhảy vọt và ngược lại.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa có chọn lọc.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật Mácxít và nâng nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của phép biện chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Không ai khác, Lênin và các đảng Mácxít đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đó bằng việc bảo vệ và phát triển triết học Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
2. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật Mácxít
Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã đưa sự phát triển của phép biện chứng duy vật Mácxít lên một tầm cao mới. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?”, Lênin đã đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm siêu hình của phái dân tuý trong việc nhận thức các hiện tượng xã hội để bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật của triết học Mác.
Trong tác phẩm “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”, Lênin đã phát triển làm phong phú thêm nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng về mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Cũng trong tác phẩm này, những nguyên lý quan trọng khác của chủ nghĩa duy vật biện chứng như nguyên lý về mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan, về tính toàn diện, tính lịch sử cụ thể trong nhận thức các hiện tượng của thế giới bên ngoài đã được Lênin phân tích sâu sắc.
“Bút ký triết học” của Lênin là một tác phẩm tiếp tục phát triển phép biện chứng Mácxít. Trong đó, Lênin phân tích sâu sắc tư tưởng coi phép biện chứng như là khoa học về sự phát triển. Khi giải quyết vấn đề về nguồn gốc và động lực của phát triển, Lênin đã chỉ ra hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện chứng coi phát triển là sự thống nhất của các mặt đối lập còn quan điểm siêu hình coi phát triển chỉ là sự tăng lên và giảm đi, là sự lặp lại. Trong “Bút ký triết học”, Lênin còn đi sâu nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật, nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức cũng như những yếu tố cơ bản của phép biện chứng.
Tóm lại, chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Sự phát triển phép biện chứng của Lênin gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách mạng, phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản. Với những cống hiến quý báu vào kho tàng triết học Mác, có thể nói Lênin đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng Mácxít.
VI. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG
Trong xu thế của nền kinh tế mở hiện nay, nước ta không thể tồn tại biệt lập và đứng ngoài sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế khu vực nói riêng đòi hỏi chúng ta phải nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, trên cơ sở đó đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, Lênin là một tấm gương sáng về sự nắm vững và vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật để vạch ra “Chính sách kinh tế mới” với tư cách là cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển. Nền văn minh trí tuệ dựa trên nền tảng của các thành tựu khoa học là một bằng chứng về sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên hướng tới lý tưởng cao đẹp mà học thuyết Mác - Lênin đã vạch ra - lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hình thức và con đường thực hiện lý tưởng đó không phải là những công thức có sẵn và bất biến. Nghĩa là, chúng ta phải vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và luôn luôn đổi mới phù hợp với điều kiện quốc tế và điều kiện của nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Cũng cần thừa nhận một thực tế là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với sự hậu thuẫn của các tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật đang có những ưu thế nhất định và tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy, nếu nhận thức về chủ nghĩa xã hội như một mặt đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa tư bản là một quan niệm không biện chứng. Biện chứng của sự kết hợp các mặt đối lập là sự triển khai cụ thể của sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Vì vậy, chúng ta phải biết vận dụng các khâu trung gian và thực hiện các bước quá độ cho phù hợp. Đó là phương pháp luận chung về sự kết hợp các mặt đối lập trong sự thống nhất biện chứng.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và sử dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi lên chủ nghĩa xã hội. Xuất phát điểm của nước ta là một nền kinh tế chậm phát triển, vì vậy chúng ta cần thiết phải tận dụng những ưu thế nổi trội của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời đấu tranh kiên quyết loại trừ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Tiến trình đổi mới đất nước ta là một quá trình vừa tuân theo sự phát triển tiến hoá dần về lượng, lại vừa tranh thủ những bước phát triển cách mạng nhảy vọt về chất, vừa tích luỹ nội dung lại vừa luôn nhạy bén cải tạo hình thức cho phù hợp, vừa kết hợp những giá trị truyền thống dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh mới. Quan điểm biện chứng dựa trên lập trường duy vật phải được phát huy triệt để trong việc giải quyết các vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Quán triệt phép biện chứng duy vật và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng nước ta là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công và đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi hoàn toàn. 
LỜI KẾT
Phép biện chứng đã trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển. Mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể đánh dấu một bước phát triển của phép biện chứng. Khởi nguồn là phép biện chứng tự phát cổ đại, sau đó là phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn và có lúc bị phép siêu hình thế kỷ XVII - XVIII phủ định, rồi đến phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và cuối cùng là phép biện chứng duy vật - giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật Mácxít ra đời là sự kế thừa hợp quy luật những thành tựu tư tưởng triết học của loài người và được minh chứng bởi các thành tựu của khoa học đương thời. Mác - Ăngghen đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật và được Lênin bảo vệ và tiếp tục phát triển, làm cho nó trở thành phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng phép biện chứng duy vật Mácxít vào hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Điều này đặt ra một nhu cầu tất yếu của lịch sử nhân loại là tiếp tục phát triển và hoàn thiện phép biện chứng duy vật Mácxít cho phù hợp với điều kiện mới. Với tính chất cách mạng và khoa học của mình, phép biện chứng duy vật đã mở ra một phương pháp nhận thức thế giới toàn diện nhất và khoa học nhất cho lịch sử nhân loại mãi mãi về sau.
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, mục đích của việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển phép biện chứng không nằm ngoài ý nghĩa thực tiễn của vấn đề. Tiến trình đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay ngày càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để xác định phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn. Sự nghiệp cách mạng không phải là một quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà là một quá trình khó khăn, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Song với bản chất cách mạng - khoa học sâu sắc và triệt để của phép biện chứng duy vật cho phép chúng ta giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh để chèo lái sự nghiệp cách mạng nước ta đến bến bờ thắng lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học tập 1, tập 2, tập 3. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1997.
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
I. Phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình
II. Sự hình thành phép biện chứng trong thời kỳ cổ đại
1. Phép biện chứng trong triết học Ấn §é cæ ®¹i
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
III. Sự hình thành phép biện chứng thời kỳ phục hưng và cận đại ở Tây Âu
1. Phép biện chứng trong thời kỳ phục hưng
2. Phép biện chứng trong thời kỳ cận đại
IV. Sự hình thành phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ
2. Phép biện chứng của Hêghen
V. Sự hình thành phép biện chứng duy vật Mácxít
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
2. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật Mácxít
VI. Ý nghÜa thùc tiÔn cña viÖc nghiªn cøu lÞch sö h×nh thµnh phÐp biÖn chøng
Lời kết
Tài liệu tham khảo

File đính kèm:

  • doctieu_luan_nhung_net_co_ban_nhat_cua_lich_su_hinh_thanh_phep.doc