Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững

Vườn quốc gia (VQG) Chư Yang Sin là một khu rừng đặc dụng của

Việt Nam nói chung và của Tây nguyên nói riêng, được thành lập năm 2002,

nằm trên địa phận 11 xã thuộc 2 huyện Lắc và Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.

VQG hiện có (đang bảo vệ) diện tích rừng nguyên sinh rất lớn, đóng vai trò

quan trọng trong bảo vệ đa dạng sinh học. Ngọn núi Chư Yang Sin là nơi

giàu đa dạng sinh học bậc nhất của cao nguyên Đà Lạt, hơn nữa, VQG còn

chứa đựng nhiều loài cây thuốc quý, hiếm, có giá trị kinh tế cũng như có giá

trị khoa học cao. VQG Chư Yang Sin được ví như viên ngọc của hệ thống

các VQG của nước ta do vị trí địa lý và thành phần các loài sinh vật tại đây.

Bên cạnh sự đa dạng sinh học cao, vùng đệm VQG Chư Yang Sin là

nơi sinh sống của của 3 dân tộc bản địa. Họ đã tích lũy được nhiều kinh

nghiệm quý báu, độc đáo trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc để phòng và

chữa bệnh tại cộng đồng. Ngoài việc thu hái cây thuốc đáp ứng nhu cầu

chữa bệnh tại chỗ trong thời gian dài, cây thuốc còn bị khai thác vì mục đích

thương mại đã dẫn đến tình trạng khan hiếm và có nguy cơ biến mất một số

loài cây thuốc quý tại vùng núi Chư Yang Sin. Cho tới nay, tại VQG Chư

Yang Sin chỉ có một số nghiên cứu về đa dạng sinh học nói chung. Các

nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây còn ít ỏi. Điều này gây khó

khăn cho việc đánh giá toàn diện giá trị cây thuốc của VQG. Do vậy, cần

thiết phải có các nghiên cứu chuyên sâu nhằm phục vụ cho việc bảo tồn

nguồn tài nguyên cây thuốc cũng như phát triển và bảo tồn tri thức dược

học, khai thác bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này.

Xuất phát từ các lý do trên, tôi lựa chọn đề tài luận án: “Nghiên cứu

nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất

các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững”. Đây là vấn đề mang tính cấp

thiết, có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao.

pdf 24 trang dienloan 9600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững

Tóm tắt Luận án Nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững
1 
MỞ ĐẦU 
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
Vườn quốc gia (VQG) Chư Yang Sin là một khu rừng đặc dụng của 
Việt Nam nói chung và của Tây nguyên nói riêng, được thành lập năm 2002, 
nằm trên địa phận 11 xã thuộc 2 huyện Lắc và Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk. 
VQG hiện có (đang bảo vệ) diện tích rừng nguyên sinh rất lớn, đóng vai trò 
quan trọng trong bảo vệ đa dạng sinh học. Ngọn núi Chư Yang Sin là nơi 
giàu đa dạng sinh học bậc nhất của cao nguyên Đà Lạt, hơn nữa, VQG còn 
chứa đựng nhiều loài cây thuốc quý, hiếm, có giá trị kinh tế cũng như có giá 
trị khoa học cao. VQG Chư Yang Sin được ví như viên ngọc của hệ thống 
các VQG của nước ta do vị trí địa lý và thành phần các loài sinh vật tại đây. 
Bên cạnh sự đa dạng sinh học cao, vùng đệm VQG Chư Yang Sin là 
nơi sinh sống của của 3 dân tộc bản địa. Họ đã tích lũy được nhiều kinh 
nghiệm quý báu, độc đáo trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc để phòng và 
chữa bệnh tại cộng đồng. Ngoài việc thu hái cây thuốc đáp ứng nhu cầu 
chữa bệnh tại chỗ trong thời gian dài, cây thuốc còn bị khai thác vì mục đích 
thương mại đã dẫn đến tình trạng khan hiếm và có nguy cơ biến mất một số 
loài cây thuốc quý tại vùng núi Chư Yang Sin. Cho tới nay, tại VQG Chư 
Yang Sin chỉ có một số nghiên cứu về đa dạng sinh học nói chung. Các 
nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc ở đây còn ít ỏi. Điều này gây khó 
khăn cho việc đánh giá toàn diện giá trị cây thuốc của VQG. Do vậy, cần 
thiết phải có các nghiên cứu chuyên sâu nhằm phục vụ cho việc bảo tồn 
nguồn tài nguyên cây thuốc cũng như phát triển và bảo tồn tri thức dược 
học, khai thác bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này. 
Xuất phát từ các lý do trên, tôi lựa chọn đề tài luận án: “Nghiên cứu 
nguồn tài nguyên cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin và đề xuất 
các biện pháp bảo tồn, sử dụng bền vững”. Đây là vấn đề mang tính cấp 
thiết, có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. 
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
a) Đánh giá hiện trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư 
Yang Sin và tri thức, kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc của các dân tộc 
thiểu số bản địa vùng đệm VQG Chư Yang Sin. 
b) Tìm hiểu các mối đe dọa và đề xuất biện pháp bảo tồn nguồn tài 
nguyên cây thuốc và nguồn tri thức dược học tại VQG Chư Yang Sin. 
c) Bước đầu tìm hiểu khả năng bảo tồn, phát triển một số loài cây 
thuốc có triển vọng. 
2 
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
* Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là cơ sở 
để bảo tồn và phát huy nguồn tài nguyên cây thuốc; là cơ sở để nghiên cứu 
dược học, thành phần hóa học, điều tra các hoạt chất sinh học trong các cây 
thuốc tại VQG. Từ đó, đề xuất giải pháp khai thác, phát triển và sử dụng bền 
vững đối với các loài cây thuốc quý, hiếm, nguy cấp tại khu vực nghiên cứu 
cũng như tri thức dược học độc đáo của các dân tộc thiểu số bản địa tại đây. 
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài làm cơ sở khoa học phục vụ 
thiết thực cho các ngành Y học, Dược học, Hóa học, đồng thời làm cơ sở để 
bảo tồn, phát triển một số loài cây thuốc quý hiếm có nguy cơ bị đe dọa cao 
tại VQG Chư Yang Sin. 
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
a) Đây là công trình đầy đủ và cập nhập nhất về nguồn tài nguyên 
cây thuốc của VQG Chư Yang Sin, bao gồm thành phần loài, đặc điểm phân 
bố và các loài bị đe dọa cần bảo vệ. 
b) Lần đầu tiên cung cấp các dẫn liệu về tri thức và kinh nghiệm sử 
dụng tài nguyên cây thuốc của 3 dân tộc thiểu số bản địa (M’nông, Ê đê và 
K’ho) sống tại vừng đệm VQG Chư Yang Sin. 
c) Bước đầu thăm dò thành công triển vọng nhân giống vô tính và 
hữu tính hai loài cây thuốc Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack) và 
Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack). 
d) Lần đầu tiên nghiên cứu chi tiết thành phần hóa học hai loài cây 
thuốc Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack) và Kỳ nam gai 
(Myrmecodia tuberosa Jack). 
e) Đã xác định được các mối đe dọa tới nguồn tài nguyên cây thuốc 
và tri thức dược học của các dân tộc thiểu số bản địa vùng đệm tại VQG 
Chư Yang Sin và đề xuất các biện pháp nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững 
chúng. 
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
Luận án gồm 5 phần: 
- Mở đầu: 03 trang. 
- Tổng quan tài liệu: 36 trang 
- Địa điểm, đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu: 07 trang 
- Kết quả nghiên cứu và thảo luận: 78 trang 
- Kết luận và kiến nghị: 03 trang 
3 
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
 Khái quát lịch sử và tình hình nghiên cứu nguồn tài nguyên cây 
thuốc trên thế giới và ở Việt Nam, bao gồm: một số mốc lịch sử điển hình 
nghiên cứu cây thuốc, tình hình điều tra, nghiên cứu, đánh giá nguồn tài 
nguyên cây thuốc (thống kê nguồn tài nguyên cây thuốc, đánh giá giá trị sử 
dụng và tiềm năng nguồn tài nguyên cây thuốc); khái quát hiện trạng bảo 
tồn cây thuốc (vai trò của cây thuốc và mối quan tâm của các quốc gia, các 
tổ chức tới bảo tồn cây thuốc); khái quát tri thức dược học dân tộc và phát 
triển nguồn tài nguyên cây thuốc (kinh nghiệm chữa bệnh bằng cây thuốc ở 
một số quốc gia và dựa vào kinh nghiệm, tri thức sử dụng cây cỏ chữa bệnh 
của các dân tộc bản địa trên nhiều vùng lãnh thổ mà nhiều loại thuốc đã 
được phát hiện, sản xuất và đưa vào ứng dụng rộng rãi). Khái quát giới thiệu 
về hai loài Bí kỳ nam - Hydnophytum formicarum Jack và Kỳ nam gai 
Myrmecodia tuberosa Jack (về tri thức sử dụng ở một số dân tộc, các nghiên 
cứu hóa học và hiện trạng bảo tồn ở một số nước trên thế giới, hình vẽ hai 
loài này) và khái quát về địa điểm nghiên cứu (vị trí VQG Chư Yang Sin, 
điều kiện tự nhiên và xã hội,). 
CHƢƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG 
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm nghiên cứu: VQG Chư Yang Sin, tỉnh Đắk Lắk. 
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu: 
2.2.1. Tài nguyên cây thuốc ở VQG Chư Yang Sin. 
2.2.2. Tri thức sử dụng cây thuốc của 3 dân tộc bản địa sống ở vùng đệm 
VQG Chư Yang Sin. 
2.2.3. Thành phần hóa học loài Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack) 
và Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack) phân bố tại VQG Chư Yang 
Sin. 
2.3. Nội dung nghiên cứu 
2.3.1. Nghiên cứu hiện trạng tài nguyên cây thuốc VQG Chư Yang Sin. 
2.3.2. Giá trị sử dụng và các mối đe dọa đối với nguồn tài nguyên cây thuốc 
VQG Chư Yang Sin. 
2.3.3. Cơ sở khoa học và các giải pháp bảo tồn, phát triển cây thuốc VQG 
Chư Yang Sin. 
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu thực vật 
4 
+ Các nghiên cứu về thực vật tại thực địa được thực hiện theo 
phương pháp truyền thống (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997, 2007) [33, 35], gồm: 
a) Phương pháp điều tra thực địa 
Dựa trên bản đồ địa hình, vị trí các kiểu thảm thực vật hiện có của 
Vườn quốc gia, thiết kế 06 tuyến điều tra chính đi qua các kiểu thảm thực 
vật ở các đai độ cao khác nhau. Từ các tuyến chính mở rộng sang 2 bên 
khoảng 40 - 50m (theo kiểu xương cá) để thu thập mẫu vật được đầy đủ 
nhất. Trên mỗi tuyến ghi lại các loài cây thuốc đã gặp. 
Các mẫu vật được cắt tỉa theo kích thước chuẩn là 29 x 41 cm, sau đó 
được ép giữa hai tời báo và bó chặt lại rồi được cố định tạm thời bằng cồn 
50
0
 - 55
0
 (chú ý với các cây mọng nước nên tăng độ cồn), sau đó đem về 
phòng thí nghiệm để thay giấy báo và sấy khô. 
Tên khoa học của các loài cây thuốc được xác định bằng phương 
pháp hình thái so sánh và chỉnh lý theo tài liệu “Danh lục các loài thực vật 
Việt Nam, tập II, III (2003, 2005) nhằm lập danh lục cây thuốc tại khu vực 
nghiên cứu. 
b) Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc 
 Đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư 
Yang Sin, tỉnh Đắk Lắk, dựa vào phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa 
Thìn [33], bao gồm đánh giá đa dạng các bậc taxon (ngành, họ, chi, loài). 
c) Phương pháp đánh giá về giá trị bảo tồn nguồn gen cây thuốc 
Đánh giá về giá trị tài nguyên cây thuốc, các loài quý, hiếm và tình 
trạng bảo tồn các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu dựa trên: Sách đỏ 
Việt Nam 2007, phần Thực vật; Nghị định 32/2006/NĐ - CP về “quản lý 
thực vật và động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm” và Danh lục đỏ cây thuốc 
Việt Nam (2006) để phân tích thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá. 
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực vật dân tộc 
 Nhằm thu thập các thông tin về sử dụng cây thuốc trong cộng đồng 
các dân tộc bản địa (M’nông, Ê đê, K’ho) vùng đệm VQG Chư Yang Sin, đã 
sử dụng các phương pháp điều tra thực vật học chuyên ngành của Anon, 
1996 và Martin J. Gary, 2002 [16, 49]. Hai phương pháp nghiên cứu được 
sử dụng là RRA (đánh giá nhanh nông thôn) và PRA (đánh giá nông thôn có 
sự tham gia của cộng đồng) để thu thập thông tin tại cộng đồng. Đây là hai 
phương pháp phổ biến và truyền thống trong nghiên cứu và điều tra tri thức 
bản địa, gồm phỏng vấn lãnh đạo địa phương (nắm bắt tình hình địa 
phương), người dân, người am hiểu về cây thuốc, người làm thuốc (ông lang 
bà mế) thuộc dân tộc M’nông, Ê đê và K’ho để thu thập thông tin về việc sử 
dụng cây thuốc trong cộng đồng và điều tra thu mẫu. 
5 
2.4.3. Phƣơng pháp phân tích thành phần và cấu trúc hóa học 
2.4.3.1. Phương pháp phân lập các chất 
*Sắc ký lớp mỏng (TLC): Sắc ký lớp mỏng (TLC) được tiến hành trên bản 
mỏng tráng sẵn silica gel loại DC-Alufolien 60 F254 (Merck 1.05715) hoặc 
RP18 F254s (Merck). Hiển thị chất trên TLC bằng cách phun đều dung dịch 
H2SO4 10% và gia nhiệt từ từ đến khi hiện màu. 
* Sắc ký cột (CC): Sắc ký cột (CC) được thực hiện với chất hấp phụ là silica 
gel 230400 mesh (0.040  0.063 mm, Merck) hoặc YMC RP-18 (3050 
m, Fuji Silysia Chemical Ltd.). 
2.4.3.2. Phương pháp xác định cấu trúc hóa học các hợp chất 
Cấu trúc hóa học của các hợp chất được xác định bằng kết quả phổ 
cộng hưởng từ hạt nhân một chiều và hai chiều cũng như so sánh với các số 
liệu đã được công bố. (Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR): 1H-NMR (500 
MHz) và 
13
C-NMR (125 MHz) được đo trên máy Bruker AM500 FT-NMR 
Spectrometer). 
2.4.4. Phƣơng pháp nhân giống một số loài có triển vọng bằng phƣơng 
pháp vô tính (giâm hom) và hữu tính (bằng hạt) 
Nhân giống vô tính (giâm hom) và hữu tính (bằng hạt) theo phương 
pháp của Nguyễn Duy Minh (2010). 
Số liệu được xử lý thống kê bằng chương trình Excel. 
2.4.4.1. Giâm hom 
Để đánh giá tỷ lệ ra rễ của hom giâm, chúng tôi sử dụng công thức sau: 
 Tỷ lệ hom ra rễ = x 100 % 
2.4.4.2. Gieo hạt 
Để đánh giá tỷ lệ hạt nảy mầm, chúng tôi sử dụng công thức sau: 
 Tỷ lệ nảy mầm = x 100 % 
Số hom ra rễ 
Tổng số hom thí nghiệm 
Tổng số hạt thí nghiệm 
Số hạt nảy mầm 
6 
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Hiện trạng tài nguyên cây thuốc VQG Chƣ Yang Sin 
3.1.1. Tính đa dạng của nguồn tài nguyên cây thuốc VQG Chƣ Yang 
Sin 
3.1.1.1. Đa dạng về các bậc taxon trong ngành 
Có thể nói tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin rất phong 
phú và đa dạng; hội tụ đầy đủ các ngành thực vật bậc cao có mạch của hệ 
thực vật Việt Nam; bao gồm 6 ngành: ngành Lá thông (Psilotophyta), ngành 
Thông đất (Lycopodiophyta), ngành Mộc tặc (Equisetophyta), ngành Dương 
xỉ (Polypodiophyta), ngành Thông (Pinophyta) và ngành Ngọc lan 
(Magnoliophyta); với tổng số 715 loài thuộc 475 chi, 153 họ. Đa số các loài 
tập trung chủ yếu ở ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta) với 670 loài (93,7%), 
445 chi (chiếm 93,7%) và 132 họ (chiếm 86,27%). Do vậy, chúng tôi đi sâu 
phân tích ngành Ngọc lan, trong đó có lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) và lớp 
Hành (Liliopsida). Lớp Ngọc lan chiếm ưu thế với 565 loài (chiếm 84,33%), 
378 chi (chiếm 84,95%), 115 họ (chiếm 87,12%). Tỷ lệ tương quan số loài 
giữa lớp Ngọc lan và lớp Hành là 5,38, nghĩa là cứ 5,38 loài thuộc lớp Ngọc 
Lan thì có một loài thuộc lớp Hành, tỷ lệ này tăng dần đến bậc chi 5,64/1 và 
bậc họ 6,76/1. Tỷ lệ này thể hiện tính vượt trội về các bậc phân loại của lớp 
Ngọc lan so với lớp Hành. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng lớp Hành 
(Liliopsida) cũng chứa đựng nhiều loài cây thuốc quý, có giá trị cao như: 
Lan gấm (Anoectochilus setaceus), Sâm cau (Curculigo orchioides), Thiên 
môn (Asparagus filicinus), 
Bảng 3.1: Sự phân bố cây thuốc của từng Ngành thực vật 
tại VQG Chư Yang Sin 
T
T 
Ngành Họ Tỷ lệ 
(%) 
Chi Tỷ lệ 
(%) 
Loài Tỷ lệ 
(%) 
1 Psilotophyta 1 0,65 1 0,21 1 0,14 
2 Lycopodiophyta 2 1,30 3 0,63 3 0,42 
3 Equisetophyta 1 0,65 1 0,21 1 0,14 
4 Polypodiophyta 11 7,21 14 2,95 24 3,36 
5 Pinophyta 6 3,92 11 2,30 16 2,24 
6 Magnoliophyta 132 86,27 445 93,70 670 93,70 
Tổng 153 100,0 475 100,0 715 100,0 
So với nghiên cứu trước đây, nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện 
và bổ sung một ngành thực vật nữa cho hệ thực vật VQG Chư Yang Sin, đó 
là ngành Lá thông (Psilotophyta). 
7 
3.1.1.2. Đa dạng về bậc họ 
Kết quả thống kê cho thấy, tổng số loài của 10 họ giàu loài nhất là 
229 loài, chiếm 32,0% số loài cây thuốc trong nguồn tài nguyên cây thuốc 
VQG Chư Yang Sin và không có họ nào chiếm tới 10% tổng số loài cây 
thuốc ở khu vực nghiên cứu. Họ Đậu (Fabaceae) có số lượng loài sử dụng 
làm thuốc nhiều nhất, với 38 loài (chiếm 5,3%). 
Bảng 3.3: Thống kê 10 họ đa dạng cây thuốc nhất tại VQG Chư Yang Sin. 
TT 
Tên họ Loài Chi 
Tên khoa học Tên Việt 
Nam 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
(%) 
1 Fabaceae Đậu 38 5,3 20 4,2 
2 Asteraceae Cúc 33 4,6 26 5,5 
3 Euphorbiaceae Thầu dầu 32 4,5 19 4,0 
4 Rubiaceae Cà phê 25 3,5 20 4,2 
5 Orchidaceae Lan 25 3,5 16 2,6 
6 Lauraceae Long não 17 2,4 6 1,3 
7 Caesalpiniaceae Vang 16 2,2 8 1,7 
8 Zingiberaceae Gừng 15 2,1 6 1,3 
9 Moraceae Dâu tằm 15 2,1 4 0,85 
10 Acanthaceae Ô rô 13 1,8 11 2,3 
Tổng 229 32,0 136 28,6 
3.1.1.3. Đa dạng về bậc chi 
Cây thuốc ở VQG Chư Yang Sin phân bố trong 475 chi. Tổng số loài 
10 chi giàu loài nhất là 63 loài, chiếm 8,8% số loài trong tổng số loài đã 
được nghiên cứu. Chi nhiều loài nhất gồm 10 loài (Ficus). Các chi còn lại có 
từ 5 loài trở lên (Bauhinia, Phyllanthus, Albizia, Syzygium, Smilax, 
Zingiber,). 
3.1.1.4. Đa dạng về bậc loài. 
 Cây thuốc ở VQG Chư Yang Sin có 715 loài. Họ dẫn đầu về số loài 
cây thuốc là họ Đậu (Fabaceae) với 38 loài. Chi nhiều loài nhất là chi Ficus 
(Moraceae) chứa 10 loài. 
Với 715 loài đã được xác định, so với số lượng loài cây thuốc của 
Việt Nam đã được công bố [V.V.Chi, 2012], cây thuốc tại VQG Chư Yang 
Sin chiếm 15,3%, còn so với số liệu của Viện Dược liệu điều tra, thống kê 
năm 2004 (3.897 loài thực vật bậc cao) thì số loài cây thuốc tại VQG Chư 
Yang Sin chiếm tới 18,34% tổng số loài cây của nước ta. Có thể thấy, VQG 
Chư Yang Sin chứa đựng một tiềm năng lớn về nguồn tài nguyên cây thuốc. 
8 
3.1.1.5. Đa dạng về dạng sống của cây thuốc ở VQG Chư Yang Sin 
Từ kết quả điều tra, chúng tôi đã thống kê được 12/16 dạng sống cơ 
bản, trong đó dạng cây cỏ đứng (COD) chiếm tỷ lệ nhiều nhất (24,05%) với 
172 loài. 
Bảng 3.5: Các dạng sống của cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin 
STT Dạng sống Số loài Tỷ lệ (%) 
1 GOL (gỗ lớn) 78 10,91 
2 GOT (gỗ trung bình) 76 10,63 
3 GON (gỗ nhỏ) 114 15,94 
4 BUI (bụi) 118 16,50 
5 COD (cỏ đứng) 172 24,05 
6 COL (cỏ leo) 78 10,91 
7 DLG (dây leo gỗ) 24 3,35 
8  ... há vỡ các nguồn thông tin truyền khẩu (đài, ti vi, sách báo,... 
chủ yếu nhấn mạnh tri thức khoa học làm loãng nguồn thông tin truyền 
khẩu,...). 
Nếu không ngăn chặn được các mối đe dọa tới nguồn tài nguyên cây 
thuốc và tri thức sử dụng chúng sớm thì nhiều cây thuốc sẽ trở thành cây 
hoang dại và nhiều bài thuốc sẽ trở thành bài thuốc “chết” trong tương lai 
không xa (không có cây thuốc để thực hành, lại không có tri thức để thực 
hiện). 
3.3. Cơ sở khoa học và giải pháp bảo tồn, phát triển cây thuốc 
3.3.1. Hiện trạng công tác bảo tồn nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG 
Các xã và các gia đình đã nhận 16.000 ha rừng để khoán bảo vệ. Số 
diện tích mà các hộ nhận khoán rừng đã được bảo vệ tốt và đời sống của các 
hộ nhận khoán cũng được cải thiện hơn. Qua đó, có thể thấy rằng việc bảo 
vệ rừng cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ nguồn tài nguyên cây thuốc. 
Trên cơ sở bảo tồn, với chủ trương bảo vệ rừng là nhiệm vụ hàng đầu 
đã được VQG Chư Yang Sin thực hiện trong vài năm gần đây, diện tích 
rừng được quản lý nghiêm ngặt chiếm gần hết diện tích của Vườn (58.488,5 
ha/59.521,9 ha - chiếm 98,2%), trong đó có nhiều cây thuốc được bảo vệ. 
Ngoài ra, VQG Chư Yang Sin đã phối hợp với các tổ chức khác như 
Birdlife thực hiện các dự án lồng ghép nghiên cứu đa dạng và bảo tồn sinh 
vật. Hiện nay, VQG đang thực hiện khoanh vùng bảo tồn một số loài cây 
thuốc thuộc nhóm hạt trần như: Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum), Kim 
giao núi đất (Nageia wallichiana), Thông hai lá dẹt (Pinus krempfii), Thông 
đà lạt (Pinus dalatensis), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Bách xanh 
(Calocedrus macrolepis). 
 Đây là các loài mà VQG đang tập trung bảo tồn, trong đó chú trọng 
vào 2 loài là Pơ mu và Bách xanh bởi khả năng khai thác tinh dầu chữa bệnh 
và hai loài này đang là mối quan tâm của nhiều thương lái. 
3.3.2. Giải pháp bảo tồn và phát triển trên cơ sở tri thức bản địa 
Bảo tồn cây thuốc là công việc dài hơi, liên tục, ngoài sự quan tâm 
của các cấp chính quyền (từ Nhà nước tới địa phương), hoạt động bảo tồn 
còn cần sự quan tâm đặc biệt của từng cá nhân trong cộng đồng. 
18 
Căn cứ vào điều tra thực tế và dựa vào các yếu tố tự nhiên, xã hội tại 
VQG Chư Yang Sin mà chúng lựa chọn các giải pháp sau: 
a) Nâng cao nhận thức cho cộng đồng về bảo tồn cây thuốc. 
b) Để bảo tồn và phát triển lâu dài, trước tiên cần tư liệu hóa cây 
thuốc thông qua việc xây dựng sổ tay cây thuốc bằng tiếng phổ thông và 
tiếng dân tộc. 
c) Khuyến khích các hộ trồng cây thuốc trong vườn nhà, nương rẫy 
và xây dựng các vườn cây thuốc tại trạm xá, trường học để nâng cao nhận 
thức cho học sinh. 
d) Đảm bảo lợi ích cho người dân, đặc biệt những cá nhân chia sẻ 
thông tin về cây thuốc hay cho các cá nhân hoặc các tổ chức ngoài cộng 
đồng của họ. 
e) Phục hồi, phát triển (nếu đã có) hoặc khuyến kích cộng đồng địa 
phương xây dựng “Hương ước” về bảo vệ rừng, bảo vệ cây thuốc phù hợp 
với Pháp luật và sẽ được Pháp luật bảo hộ. 
3.3.3. Cơ sở khoa học để bảo tồn và phát triển một số loài cây thuốc có 
triển vọng 
3.3.3.1. Cơ sở khoa học cho bảo tồn 
Dẫu biết rằng, hoạt động bảo tồn cần phải được áp dụng cho tất cả 
các loài, góp phần bảo vệ đa dạng nguồn gen. Song, do điều kiện thực tế 
chưa cho phép nên chúng tôi lựa chọn các loài cần ưu tiên bảo tồn dựa vào 
hiện trạng thực tế và tình trạng đang được khuyến cáo bảo vệ trong các tài 
liệu sau: 
- Các loài có tên trong Sách đỏ Việt nam (Phần II - Thực vật), 2007. 
- Các loài có tên trong nghị định 32/NĐ-CP ban hành về “quản lý 
thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm” ngày 30/3/2006. 
- Các loài có tên trong Danh lục đỏ cây thuốc (2006). 
3.3.3.2. Thực thi bảo tồn tại VQG 
Bảo tồn là để sử dụng lâu dài, bảo vệ đa dạng sinh học, vì thế phải 
tiến hành đưa các loài bị đe dọa vào nhân trồng càng sớm càng tốt. 
Trong các hình thức bảo tồn, chú trọng đến 2 hình thức bảo tồn 
nguyên vị (in situ) tại VQG và bảo tồn chuyển vị (ex situ) tại các địa 
phương khác có điều kiện thích hợp có thể đưa giống vào trồng đại trà. Hai 
hình thức bảo tồn này đều có ưu, nhược điểm, bổ sung cho nhau và không 
thể thay thế. Vì vậy, cần tiến hành đồng thời cả 2 hình thức này trong bảo 
tồn cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin. 
19 
Vai trò tham gia của người dân trong bảo tồn và trồng cây thuốc ngay 
tại địa phương là rất quan trọng. Cần tập huấn, hướng dẫn cho người dân về 
bảo tồn, thu hái và trồng trọt cây thuốc. 
3.3.3.3. Nghiên cứu nhân trồng hai loài cây thuốc. 
 Căn cứ vào điều tra thực tế về các loài bị mất môi trường sống, lại bị 
khai thác nhiều và đặc biệt là khả năng tái sinh tự nhiên hạn chế; đồng thời 
căn cứ vào Sách đỏ Việt Nam, Danh lục đỏ cây thuốc, chúng tôi lựa chọn 
trước hết 02 loài để nghiên cứu nhân trồng là: Bí kỳ nam (Hydnophytum 
formicarum Jack) và Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack). 
Đây là hai loài cây thuốc đặc trưng trong vùng, bị khai thác mạnh 
mẽ, số lượng cá thể giảm mạnh, đang bị đe dọa và trở nên hiếm gặp, đặc biệt 
là chưa có bất kỳ thông tin nào về đặc điểm tái sinh, nhân giống chúng. 
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu khả năng nhân giống của hai loài cây 
thuốc này bằng 2 phương pháp: vô tính (giâm hom) và hữu tính (ươm hạt). 
Thử nghiệm nhân giống vô tính loài Bí kỳ nam (Hydnophytum 
formicarum) với các công thức thí nghiệm gồm hom giâm không xử lý chất 
kích thích ra rễ (đối chứng) và hom giâm được nhúng vào dung dịch ra rễ 
IAA 2000, 3000 và 5000ppm trong 6 giây. Sau 30 ngày theo dõi thí nghiệm, 
kết quả hom giâm ra rễ cao nhất đạt tỷ lệ 56,7%, khi hom được xử lý với 
chất kích thích IAA 3000ppm trong 6 giây và thấp nhất (3,3%) khi hom 
được xử lý với chất kích thích IAA 5000ppm trong 6 giây. 
Để nhân giống thành công loài này cần đảm bảo các điều kiện sau: 
chọn được nồng độ chất kích thích ra rễ phù hợp; thời gian xử lý hom giâm 
với chất kích thích ra rễ; duy trì độ ẩm cho hom giâm (75 -80% những ngày 
đầu, sau giảm dần (tưới 3 - 4 lần/ngày)); buộc phải chọn giá thể phù hợp 
(bởi cây này là cây sống phụ sinh). 
Nhân giống bằng hạt của hai loài Bí kỳ nam (Hydnophytum 
formicarum Jack) và Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack), bước đầu ghi 
nhận kết quả như sau: sự nảy mầm của hạt loài Bí kỳ nam đạt cao nhất là 
50% và loài Kỳ nam gai là 53,3%. 
Tiếp tục theo dõi quá trình sinh trưởng của hai loài này cho thấy: cây 
non phát triển chậm: đường kính thân phình chỉ đạt 2,56 cm (đối với loài Bí 
kỳ nam) và 4,56 cm (Kỳ nam gai) sau 18 tháng nhân trồng. 
Đây là kết quả đầu tiên thăm dò khả năng nghiên cứu về nhân giống 
(giâm hom và hạt) hai loài Bí kỳ nam và Kỳ nam gai. Kết quả bước đầu đã 
mở ra triển vọng nhân trồng, nhằm bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc 
này ngay trong vùng đệm và các địa phương khác nữa trong tương lai. 
20 
3.3.3.4. Nghiên cứu thành phần hóa học hai loài cây thuốc Bí kỳ nam 
(Hydnophytum formicarum Jack) và Kỳ nam gai (Myrmecodia 
tuberosa Jack) 
a) Thành phần hóa học loài Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack) 
 * Các chất được phân lập từ loài Bí kỳ nam theo sơ đồ sau: 
Cặn MeOH (50g)
Cặn n-
hexan
(4g)
Cặn etyl acetat
(15g)
Cặn
diclomethan
(2g)
Nước
Nguyên liệu khô
(2kg)
E1
E2 
(400mg)
E3 
(1,8g)
E4 E5 E6
E2a
HF1
(3mg)
E3a E3b 
(300mg)
HF2
(15mg)
HF3
(20mg)
W1 W2 W3 W4
W2A
HF4
(5mg)
W2B 
(20mg)
HF5
(3mg)
W2C
60mg
HF6
(3mg)
HF7
(6mg)
HF8
(8mg)
W2F 
(280mg)
W2G 
(440mg)
HF9
(6mg)
W2B1 
(35mg)
W2B2 
(20mg)
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ phân lập các chất từ cây Bí kỳ nam 
Đã phân lập được 9 hợp chất (ký hiệu HF1-HF9): hợp chất 
HF1(butin), HF2 (catechin), HF3 (daucosterol), HF4 (3-hydroxyphenyl β-
D-glucopyranoside), HF5 (adenosine), HF6 (6α-Hydroxygeniposide), HF7 
(10-hydroxyloganin), HF8 (axit asperulosidic), HF9 (axit 
deacetylasperulosidic), trong đó, lần đầu tiên các hợp chất HF4, HF6, HF7, 
HF8 và HF9 được công bố từ loài Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum). 
 Các hợp chất này có tác dụng chống ôxi hóa mạnh (3-hydroxyphenyl 
β-D-glucopyranoside và butin), và tăng cường khả năng miễn dịch, chống 
21 
các khối u (catechin, adenosine, daucosterol), mở ra triển vọng ứng dụng các 
hợp chất này trong y học (chống viêm, ung thư cổ tử cung, ung thư vú, tim 
mạnh,). 
b) Thành phần hóa học loài Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack) 
 * Các chất được phân lập từ loài Kỳ nam gai theo sơ đồ sau: 
Cặn MeOH (45g)
Cặn n-
hexan
(10g)
Cặn etyl acetat (2g)
Cặn
diclomethan
(4,5g)
Dịch nước
Nguyên liệu khô
(2kg)
W1.2
MT2
(4 mg)
W1.3
W1.4
(2,5mg)
W1 (7,5g)
W2 
(6,5g) W3
W2.1 
(35mg)
W2.2 
(20mg)
MT8
(8mg)
W1.1 
(380mg)
W1.5
(90mg)
W1.1A 
(160mg)
W1.1B 
(90mg)
W1.1C 
(20mg)
W2.3 
(190mg)
D1
(5mg) D2 D3
MT1 
(5mg)
MT3 
(3mg)
MT4 
(3mg)
MT5 
(8mg)
MT6 
(5mg)
MT7
(4mg)
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ phân lập các hợp chất từ loài Kỳ nam gai 
Đã phân lập được 8 hợp chất (MT1-MT8) từ phân đoạn nước, trong 
đó đặc biệt đã phân lập được 2 hợp chất mới là: MT1 (Myrmecodoide A) 
và MT3 (Myrmecodoide B) và lần đầu tiên 4 hợp chất iridoit asperuloside 
(MT4), axit deacetylasperulosidic (MT5), axit premnosidic (MT6), axit 
deacetylasperulosidic (MT7) cùng với 2 hợp chất erythro-Guaiacyglycerol 
22 
(MT2), kaempferol 3-sophoroside (MT8) được công bố từ cây Kỳ nam gai 
(Myrmecodia tuberosa Jack). Các hợp chất này có thể ứng dụng trong điều 
trị các bệnh nhiễm khuẩn, giảm hệ thống miễn dịch, các khối u,. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
KẾT LUẬN 
1. Đã điều tra, thống kê được 715 loài cây thuốc, 475 chi của 153 họ 
thuộc 6 ngành thực vật bậc cao là: Ngành Lá thông (Psilotophyta), Ngành 
Thông đất (Lycopodiophyta), Ngành Mộc tặc (Equisetophyta), Ngành 
Dương xỉ (Polypodiophyta), Ngành Thông (Pinophyta) và Ngành Ngọc lan 
(Magnoliophyta) ở VQG Chư Yang Sin. Trong đó, đã bổ sung thêm 01 
Ngành (ngành Lá thông). 
2. Đã thống kê được 45 loài cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin có tên 
trong Sách đỏ Việt Nam, 2007 (mức CR: 0l loài, mức EN: 19 loài, mức VU: 
25 loài); 21 loài có tên trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP (03 loài thuộc 
nhóm I.A, 18 loài thuộc nhóm II.A) và 27 loài có tên trong Danh lục đỏ cây 
thuốc, 2006 (mức EN: 13 loài, mức VU: 14 loài). 
3. Đã thống kê được phân bố cây thuốc theo các kiểu thảm thực vật: 
Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới: có 256 loài (chiếm 35,8%); Rừng 
kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp: có 369 loài (chiếm 51,6%); 
Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: có 166 loài 
cây thuốc (chiếm 23,2%) và Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới 
núi thấp: có 89 loài cây thuốc (chiếm 12,44%); thảm cây nông nghiệp có: 29 
loài cây thuốc (chiếm 4,1%). 
4. Đã điều tra, thống kê được 215/715 loài cây thuốc được sử dụng 
tại cộng đồng bởi các dân tộc bản địa (dân tộc Ê đê: 105 loài, M’nông: 85 
loài và K’ho: 65 loài) dùng chữa 15 loại bệnh khác nhau hay gặp trong cộng 
đồng (các bệnh thuộc hệ tiêu hóa, ngoài da và hệ vận động được chữa trị 
nhiều nhất). Lá và rễ là hai bộ phận được sử dụng nhiều nhất trong số 8 bộ 
phận của cây bị thu hái (lá, thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa,...). Đun uống là 
cách dùng phổ biến nhất, rất hiếm khi nấu cao (bá bệnh). 
5. Đã xác định được 9 hợp chất của loài Bí kỳ nam và 8 hợp chất của 
loài Kỳ nam gai, đặc biệt trong đó, đã phân lập được 2 hợp chất mới là 
Myrmecodoide A và Myrmecodoide B, cùng với 6 hợp chất asperuloside, 
axit deacetylasperulosidic, axit premnosidic, axit deacetylasperulosidic, 
erythro-guaiacyglycerol, kaempferol 3-sophoroside lần đầu tiên được công 
bố từ cây Kỳ nam gai (Myrmecodia tuberosa Jack) và 5 hợp chất 3-
23 
hydroxyphenyl β-D-glucopyranoside, 6α-hydroxygeniposide, 10-
hydroxyloganin, axit asperulosidic, axit deacetylasperulosidic cũng lần đầu 
tiên được công bố từ cây Bí kỳ nam (Hydnophytum formicarum Jack). 
6. Bước đầu đã thăm dò được triển vọng nhân giống hai loài Bí kỳ 
nam và Kỳ nam gai cả bằng phương pháp vô tính (giâm hom đạt 56,7%) và 
hữu tính (hạt Bí kỳ nam đạt 50% và hạt Kỳ nam gai đạt 53,3%). 
7. Đã xác định được 9 nguyên nhân trực tiếp và 4 nguyên nhân gián 
tiếp đe dọa tới nguồn tài nguyên cây thuốc và 4 nguyên nhân đe dọa tới tri 
thức dược học, đã đề xuất 5 biện pháp nhằm bảo tồn và phát triển bền vững 
nguồn tài nguyên cây thuốc tại VQG Chư Yang Sin. 
KIẾN NGHỊ 
Để giữ gìn nguồn gen cây thuốc tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin 
nhất thiết phải nhìn nhận vấn đề bảo tồn là quan trọng, xin kiến nghị một vài 
nội dung sau: 
1. Để bảo tồn có sự tham gia của cộng động bởi công tác bảo tồn là 
công việc lâu dài. 
2.Tuyên truyền, giáo dục và có các chính sách hỗ trợ người dân tham 
gia công tác bảo tồn. 
3. Khuyến khích người dân đưa cây thuốc vào trồng tại vườn nhà hay 
trồng ở nương rẫy, tăng nguồn thu nhập trên chính mảnh đất của mình. 
4. Cần song hành thực thi 2 phương thức bảo tồn chính: bảo tồn 
nguyên vị và bảo tồn chuyển vị. 
5. Khuyến kích cộng đồng địa phương xây dựng “Hương ước” về 
bảo vệ rừng, bảo vệ cây thuốc phù hợp với Pháp luật và sẽ được Pháp luật 
bảo hộ. 
24 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Lưu Đàm Cư, Nguyễn Phương Hạnh, 2013, “Bước đầu điều tra cây 
thuốc được đồng bào M’Nông sử dụng ở Đắk Lắk”, Tạp chí Khoa 
học và công nghệ Việt Nam, số 23/2013, tr 31-33. 
2. Nguyễn Phương Hạnh, Lưu Đàm Cư, 2013, “Kinh nghiệm sử dụng 
cây thuốc của dân tộc M’Nông tỉnh Đắk Lắk”, Báo cáo KH, Hội nghị 
quốc gia về sinh thái và TNSV lần thứ năm, 18/10/2013, tr1026-
1030. 
3. Nguyen Phuong Hanh, Luu Dam Cu, Nguyen Quoc Binh, 2014, “A 
survey of traditional medicinal plants used by K’ho people in the 
buffer zone of Chu Yang Sin national park, Vietnam”, J. Viet. 
Env,Vol. 6, No 3, pp 276-280, 2014 
4. Nguyễn Phương Hạnh, Nguyễn Hữu Toàn Phan, Nguyễn Thị Diệu 
Thuần, Lê Thị Viên, Trần Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Văn Thanh, 
Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Hoài Nam, Châu Văn Minh, 2014, 
“Bước đầu nghiên cứu thành phần hóa học cây Ổ kiến - 
Hydnophytum formicarum Jack”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ 52 
(5A), 2014,76-81. 
5. Nguyen Phuong Hanh, Nguyen Huu Toan Phan, Nguyen Thi Dieu 
Thuan, Le Thi Vien, Tran Thi Hong Hanh, Nguyen Van Thanh, 
Nguyen Xuan Cuong, Nguyen Hoài Nam, and Chau Van Minh, 
2015, “Iridoid constituents from the ant plant - Hydnophytum 
formicarum Jack”, Vietnam Journal of Chemistry, Vol. 53(2e), 127 - 
130. 
6. Nguyen Phuong Hanh, Nguyen Huu Toan Phan, Nguyen Thi Dieu 
Thuan, Tran Thi Hong Hanh, Nguyen Quoc Binh, Le Thi Vien, 
Nguyen Phuong Thao, Nguyen Van Thanh, Nguyen Xuan Cuong, 
Nguyen Hoai Nam, Phan Van Kiem, Young Ho Kim, and Chau Van 
Minh, 2015, “Two new simple iridoids from the ant-plant 
Myrmecodia tuberosa and their antimicrobial effects”, Natural 
Product Research (đã chấp nhận đăng). 
7. Nguyễn Phương Hạnh, Nguyễn Quốc Bình, 2015, “Bước đầu nghiên 
cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) ở 
VQG Chư Yang Sin, tỉnh Đắk Lắk”, Báo cáo KH, Hội nghị quốc gia 
về sinh thái và TNSV lần thứ sáu, 20/10/2015, trang 1100 - 1105. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_nguon_tai_nguyen_cay_thuoc_tai_vu.pdf
  • pdfThong tin dua len mang. E..pdf
  • pdfThong tin dua len mang. V.pdf