Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sinh tổng hợp và thu nhận axit poly γ glutamic và hướng ứng dụng trong thực phẩm
Khoa học công nghệ và ứng dụng của nó đời sống ngày càng
được quan tâm của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Những
ứng dụng của khoa học và công nghệ vào cuộc sống ngày càng thể
hiện sự quan trọng của lĩnh vực này. Các hợp chất có nguồn gốc
thiên nhiên dần thay thế các hợp chất có nguồn gốc hóa học. Sự phát
triển của công nghệ sinh học đã giúp xã hội phát triển theo hướng
thích ứng với tự nhiên, quá trình tổng hợp các hợp chất tự nhiên từ vi
sinh vật đang là điểm đến của các nhà nghiên cứu. Các hợp chất có
nguồn gốc tự nhiên được thu nhận từ vi sinh vật nhờ việc tổng hợp từ
chu trình sống của chúng. So với các hợp chất được tổng hợp bằng
con đường hóa học, tổng hợp bằng phương pháp sinh học có những
ưu điểm vượt trội như: an toàn cho sức khỏe con người, thân thiện
với môi trường và có tính chất bền vững.
Axit poly γ-glutamic (γ-PGA) có tính chất của một polyme, nó có
thể được tạo ra bằng cách sử dụng axit glutamic thông qua phương
thức tổng hợp hóa học để tạo ra, cách thứ hai là sử dụng vi sinh vật
có khả năng tổng hợp polyme từ quá trình sinh trưởng và phát triển
của vi sinh vật đó. Bản chất là một polyme có khả năng phân hủy,
không độc với con người, tự nhiên nên γ-PGA đang được nghiên cứu
và ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực.Trong ngành công nghiệp xử lý
môi trường γ-PGA được sử dụng làm chất kết tụ, hỗ trợ quá trình
lắng, thay thế dần các chất kết tụ có nguồn gốc hóa học. Trong công
nghiệp sản xuất thực phẩm γ-PGA được sử dụng như một dạng phụ
gia ổn định chất lượng sản phẩm, trong y dược γ-PGA được dùng
như các chất mang, chất giữ ẩm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sinh tổng hợp và thu nhận axit poly γ glutamic và hướng ứng dụng trong thực phẩm
1 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Khoa học công nghệ và ứng dụng của nó đời sống ngày càng được quan tâm của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Những ứng dụng của khoa học và công nghệ vào cuộc sống ngày càng thể hiện sự quan trọng của lĩnh vực này. Các hợp chất có nguồn gốc thiên nhiên dần thay thế các hợp chất có nguồn gốc hóa học. Sự phát triển của công nghệ sinh học đã giúp xã hội phát triển theo hướng thích ứng với tự nhiên, quá trình tổng hợp các hợp chất tự nhiên từ vi sinh vật đang là điểm đến của các nhà nghiên cứu. Các hợp chất có nguồn gốc tự nhiên được thu nhận từ vi sinh vật nhờ việc tổng hợp từ chu trình sống của chúng. So với các hợp chất được tổng hợp bằng con đường hóa học, tổng hợp bằng phương pháp sinh học có những ưu điểm vượt trội như: an toàn cho sức khỏe con người, thân thiện với môi trường và có tính chất bền vững. Axit poly γ-glutamic (γ-PGA) có tính chất của một polyme, nó có thể được tạo ra bằng cách sử dụng axit glutamic thông qua phương thức tổng hợp hóa học để tạo ra, cách thứ hai là sử dụng vi sinh vật có khả năng tổng hợp polyme từ quá trình sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật đó. Bản chất là một polyme có khả năng phân hủy, không độc với con người, tự nhiên nên γ-PGA đang được nghiên cứu và ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực.Trong ngành công nghiệp xử lý môi trường γ-PGA được sử dụng làm chất kết tụ, hỗ trợ quá trình lắng, thay thế dần các chất kết tụ có nguồn gốc hóa học. Trong công nghiệp sản xuất thực phẩm γ-PGA được sử dụng như một dạng phụ gia ổn định chất lượng sản phẩm, trong y dược γ-PGA được dùng như các chất mang, chất giữ ẩm... Theo một số tài liệu nghiên cứu cho thấy vi khuẩn Bacillus có khả năng sinh tổng hợp γ-PGA không chỉ có trong các sản phẩm nước ngoài mà có thể phân lập được từ các sản phẩm thực phẩm truyền thống của Việt Nam như Tương Bần, Tương Nam Đàn, Nước Mắm, Chao Từ thực trạng nghiên cứu về γ-PGA trong sản xuất và ứng dụng tại Việt Nam cho thấy chúng ta cần có những nghiên cứu rộng hơn về tính chất ưu việt của vi khuẩn Bacillus cũng như các sản phẩm và vi khuẩn này tạo. Hơn nữa việc tạo ra những sản phẩm có nguồn gốc từ quá trình lên men hiện nay là một xu hướng phát triển, bởi tính an toàn, khả năng ứng dụng cao, ít ảnh hưởng đến môi 2 trường sống. Để đáp ứng nhu cầu đó đề tài “Nghiên cứu sinh tổng hợp và thu nhận axit poly γ glutamic và hướng ứng dụng trong thực phẩm” ra đời nhằm khai thác những những điểm mạnh của vi khuẩn Bacillus và tạo ra những sản phẩm mới đáp ứng những nhu cầu bức thiết của xã hội hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Nghiên cứu công nghệ sản xuất axit poly γ glutamic từ vi sinh vật. Ứng dụng chế phẩm axit poly γ glutamic vào trong các sản phẩm thực phẩm Nội dung nghiên cứu gồm Phân lập, tuyển chọn và định danh các chủng vi sinh vật có khả năng sinh tổng hợp γ-PGA từ các sản phẩm thực phẩm lên men truyền thống. Khảo sát và tối ưu các điều kiện nuôi cấy cho chủng lựa chọn để thích hợp sinh tổng hợp axit poly γ glutamic. Tinh sạch, thu nhận và khảo sát các đặc điểm của axit poly γ glutamic. Bước đầu ứng dụng thử nghiệm axit poly γ glutamic vào một số sản phẩm thực phẩm. Những đóng góp mới của luận án Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống về công nghệ thu nhận axit poly γ glutamic từ việc phân lập, tuyển chọn chủng giống vi sinh vật, tối ưu hóa các điều kiện nuôi vi khuẩn sinh tổng hợp γ-PGA, tách, tinh sạch, thu nhận đến việc xác định cấu trúc và đặc tính của γ-PGA. Bước đầu ứng dụng có hiệu quả γ-PGA trong việc ổn định trạng thái, màu sắc, hương vị của nước cam và trong chế biến và bảo quản, cũng như cải thiện độ giòn, dai, màu sắc trong sản xuất giò. Bố cục của luận án: Luận án gồm 120 trang với 36 bảng số liệu 53 hình và 130 tài liệu tham khảo trong và ngoài nước; trong đó: Mở đầu (2 trang); Chương 1 Tổng quan (37 trang), Chương 2 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu (11 trang), Chương 3 Kết quả và thảo luận (58 trang), Chương 4 Kết luận (1 trang), Danh mục các công trình nghiên cứu với 4 bài báo đã công bố (1 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang) Chương 1. TỔNG QUAN 3 Phần tổng quan tài liệu tổng hợp các nghiên cứu trong nước và ngoài nước đề cập đến các vấn đề chính sau: 1.1 Giới thiệu về axit poly gamma glutamic 1.2 Tình hình nghiên cứu γ-PGA trên thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình hình nghiên cứu γ-PGA trên thế giới. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu γ-PGA ở Việt Nam 1.3 Cơ chế sinh tổng hợp γ-PGA 1.4 Tính chất γ-PGA 1.5 Phân loại γ-PGA 1.6 Hệ vi khuẩn sinh tổng hợp γ-PGA 1.7 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp γ-PGA 1.7.1. Ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng 1.7.2. Ảnh hưởng của yếu tố ngoại cảnh đến quá trình lên men 1.7.3. Phương pháp lên men γ-PGA 1.8 Xác định và đánh giá chất lượng và γ-PGA. 1.8.1. Định tính và định lượng γ-PGA 1.8.2. Thu nhận và tinh sạch γ-PGA 1.8.3. Đánh giá cấu trúc và khối lượng phân tử của γ-PGA 1.8.4. Xác định khối lượng phân tử γ-PGA. 1.9 Ứng dụng γ-PGA 1.9.1. Trong lĩnh vực môi trường 1.9.2. Trong lĩnh vực y dược 1.9.3. Trong lĩnh vực nông nghiệp 1.9.4. Trong lĩnh vực công nghiệp thực phẩm Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu 2.1.1. Nguồn phân lập: tương Bần, tương Nam Đàn, chao Đại Bình Dương, mắm Rươi Tứ Kỳ, Natto - Nhật Bản và Thua Nao -Thái 2.1.2. Hóa chất: Agarrose (Merck), ethidium bromide, PCR buffer (BioLabs), dNTP (BioLabs), Taq polymerase (BioLabs), kit tinh sạch sản phẩm PCR (Promega), cặp mồi đọc trình tự 16SF và 16SR (Invitrogen), marker protein (hãng Sigma) 2.1.3. Môi trường nuôi cấy: môi trường LB và đặc hiệu E. 2.1.4. Dụng cụ và thiết bị: Máy đo mật độ quang - Ultrospec 2000 uv/vis (Pharmacia Biotech); Máy li tâm lạnh -Avanti TM 30 Centifuge Beckman (Đức); Máy đo cấu trúc - Texture Analyser 4 TA.XT Plus (Đức); Máy đo phổ hồng ngoại Nicole 6700 FT-IR (Đức); Thiết bị lên men phòng thí nghiệm BioTron (Hàn Quốc) 2.2. Phương pháp nghiên cứu. 2.2.1. Phương pháp vi sinh và sinh học phân tử: sử dụng bộ kit API 50CHB (BioMérieux, Pháp) và giải trình tự gen 16S rRNA 2.2.2. Khảo sát, đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến khả sinh tổng hợp γ-PGA theo phương pháp đơn yếu tố 2.2.3. Phương pháp toán học - tối ưu điều kiện nuôi cấy theo quy hoạch thực nghiệm - Box-Behnken với phần mềm Desgin Expert 2.2.4. Phương pháp phân tích hóa lý, hóa sinh: Đo quang, HPLC, GPC, SDS-PAGE, đo độ quay cực, đo huyền phù Krop 2.2.5. Phương pháp đánh giá cảm quan. 2.2.6. Nghiên cứu và đánh giá mức độ ảnh hưởng của γ-PGA đến chất lượng giò lụa bằng phương pháp đo lực nén, lực cắt và cường lực gel. Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp Poly γ-glutamic. Từ các mẫu, phân lập bằng môi trường thạch LB, sau đó quan sát hình thái khuẩn lạc, hình thái vi khuẩn, kết quả sau thu được 27 chủng vi khuẩn trên tổng số 40 chủng vi sinh vật qua các phương pháp hình thái, nhuộm bào tử, nhuộm gram. Tiến hành nuôi cấy 27 chủng vi khuẩn này trên môi trường đặc hiệu, thu được chủng phân lập được 7 chủng có khả năng phát triển mạnh trên môi trường đặc hiệu sau 72 h nuôi cấy. Từ 7 chủng thu được thông qua nuôi cấy trên môi trường đặc hiệu E, cho thấy hai chủng B5 và T1 là hai chủng tạo ra độ nhớt lớn nhất từ 5,2 – 5,3cp. Hình 3.1. Sự tạo màng của các chủng vi khuẩn trên môi trường đặc hiệu 5 Phương pháp sử dụng độ nhớt để đánh giá khả năng sinh tổng hợp γ-PGA của các chủng chỉ mang tính chất định tính, được nhiều nghiên cứu sử dụng như thước đo γ-PGA. Tuy vậy chưa thể kết luận có γ-PGA trong thành phần dịch nhớt, để chứng minh trong dịch nhớt có γ-PGA, tiến hành kết tủa phần dịch nhớt và thủy phân kết tủa bằng HCL 6N, dịch sau thủy phân được đem đi thẩm tách loại muối và chạy sắc ký bản mỏng dịch sau thẩm tích với mẫu chuẩn là axit glutamic và chất hiển thị màu là ninhydrin. Kết quả cho thấy băng chạy dịch nhớt sau thủy phân từ chủng B5 chỉ xuất hiện một vết ở vị trí tương đương với vết của axit glutamic chuẩn. Điều đó chứng tỏ dịch nhớt của canh trường lên men có chứa γ-PGA. Để đánh giá chính xác hơn khả năng sinh γ-PGA, 7 chủng tạo màng trên một lần nữa được đem nuôi trên môi trường đặc hiệu và thu nhận sau 24 h. Đem đi xử lý và định lượng γ-PGA bằng đo phổ hấp thụ quang tại vùng tử ngoại. Nghiên cứu cho thấy cho thấy hàm lượng γ-PGA tạo thành cao nhất là hai chủng B5 và T1 với giá trị lần lượt là 5,564 g/l và 5,041 g/l sau 96h nuôi cấy và khả năng sinh γ-PGA mạnh nhất là thời điểm 96h của các chủng phân lập được. Dựa trên các kết quả đo độ nhớt, đo hàm lượng γ-PGA bằng phương pháp phổ tử ngoại và các đặc điểm hình thái thấy hai chủng vi khuẩn có mã hiệu B5 và T1 có khả năng sinh tổng hợp γ-PGA lớn nhất trong số 7 chủng vi khuẩn phân lập được. Trên cơ sở đó lựa chọn hai chủng vi khuẩn B5 và T1 để nghiên cứu sinh tổng hợp γ- PGA. 3.2. Định danh chủng vi khuẩn sinh γ-PGA 3.2.1. Định danh theo đặc điểm hình thái kết hợp với sử dụng kit API 50CHB Dựa vào kết quả phân loại theo các đặc tính: hình thái khuẩn lạc, tế bào, khả năng sinh bào tử, khả năng nhuộm Gram, nhu cầu oxy, ảnh hưởng của pH, nồng độ muối... Đánh giá khả năng sử dụng các loại đường của 2 chủng với bộ Kit API 50 CHB và đối chiếu với phần mềm nhận dạng API PLUS để đánh giá thu được kết quả trong bảng 3.6 6 Bảng 3.6. Kết quả sử dụng carbon của vi khuẩn B5 và T1 bằng Kit API 50 CHB TT Phép thử Khả năng sử dụng TT Phép thử Khả năng sử dụng B5 T1 B5 T1 0 Đối chứng - - 25 Esculin + + 1 Glycerol + + 26 Salixin + + 2 Erythritol - - 27 Xelobiose + + 3 D-Arabinose - - 28 Mantose + + 4 L-Arabinose + + 29 Lactose + + 5 Ribose + + 30 Melibiose + - 6 D-Xylose - + 31 Saccarose + + 7 L-Xylose - - 32 Trehalose + + 8 Adonitol - - 33 Inulin - - 9 -Metyl-D-Glucozit - - 34 Melezitose - - 10 Galactose - - 35 Rafinose + + 11 Glucose + + 36 Tinh bột + + 12 Fructose + + 37 Glycogen + + 13 Manose + + 38 Xylitol - - 14 Sorbose - - 39 Gentiobiose + + 15 Rhamnose - - 40 D-Turanose + - 16 Dulxitol - - 41 D-Lyxose - - 17 Inozitol + + 42 D-TAgartose - - 18 Mannitol + + 43 D-Fucose - - 19 Sorbitol + + 44 L-Fucose - - 20 -Metyl-D-Manozit - - 45 D-Arabitol - - 21 -Metyl-D-Glucozit + + 46 L-Arabitol - - 22 N-Acetyl-Glucosamin - + 47 D-TAgartose - - 23 Amygdalin - + 48 2-ketogluconat - - 24 Arbutin + + 49 5-ketogluconat - - (+): Phản ứng dương tính (-): Phản ứng âm tính 7 Sau khi kết hợp giữa việc đánh giá dựa trên đặc điểm sinh lý, sinh hóa và phần mềm API PLUS cho thấy chủng vi khuẩn B5 có độ tương đồng với B. subtilis là 98% và độ tương đồng của vi khuẩn T1 với loài B. subtilis là 73%. 3.2.2. Định tên bằng phương pháp sinh học phân tử: Trình tự đoạn gen được giải trình tự trên hệ thống máy ABI 3103XL, xác định được đoạn gen 16S rRNA của chủng B5 có 1250 bp và của T1 là 1516bp (phụ lục). Phân tích mối quan hệ phát sinh loài được tiến hành dựa trên thuật toán Maximum Likelihood, sử dụng phần mềm Phylogeny với dữ liệu trên ngân hàng gen NBCI, cho thấy các chủng vi sinh vật B5 và T1 đều có quan hệ gần nhất (98-99%) với loài B. subtilis. Hình 3.6. Cây phát sinh chủng (B5) dựa trên trình tự gen mã hóa 16S rRNA Kết quả định danh bằng hai phương pháp hóa sinh và phương pháp sinh học phân tử cho thấy chủng vi khuẩn B5 là chủng vi khuẩn có độ tương đồng 98-99% với B. Subtilis BA-71. Từ kết quả trên, luận án đã đề xuất định tên cho chủng vi khuẩn này là Bacillus subtilis B5. Đối với chủng T1 sau khi định danh bằng phương pháp hóa sinh cho thấy có độ tương đồng là là 73% và phương pháp sinh học phân tử cho kết quả có độ tương đồng với B. subtilis C-3-9 (98- 99%) nên chưa thể kết luận chủng T1 thuộc loài B. subtilis 3.3. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp γ-PGA 3.3.1.Nghiên cứu tiền chất thích hợp cho sinh tổng hợp γ-PGA Những nghiên cứu về sinh tổng hợp γ-PGA cho thấy tiền chất để tạo thành γ-PGA chủ yếu là hợp chất glutamic, glutamat hay bột đậu tương. Việc bổ sung đậu tương dạng bột vào canh trường lên men không làm tăng lượng γ-PGA, không những vậy khi bổ sung đậu tương còn gây ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của vi khuẩn, ảnh hưởng đến sự hình thành của γ-PGA. Trong môi trường có chứa natri glutamat, hàm lượng γ-PGA tạo thành cao hơn trong môi trường có 8 chứa glutamic. Như vậy có thể sử dụng natri glutamat làm nguồn tiền chất trong quá trình tạo γ-PGA thay thế cho axit glutamic trong toàn bộ quá trình nghiên cứu. 3.3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ B. subtilis là loài vi khuẩn ưa ấm có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt ở dải nhiệt độ từ 30oC đến 45oC. Để có thể tìm ra một chế độ nhiệt thích hợp cho sinh tổng hợp γ-PGA, tiến hành sử dụng môi trường nghiên cứu có natri glutamat, trong điều kiện nuôi tĩnh, lên men tại các nhiệt độ 30oC; 35oC; 40oC và 45oC và 50oC để nuôi cấy, thu nhận kết quả 24h một lần, kết thúc quá trình lên men sau thời gian 120h. Kết quả nghiên cứu được thể hiện qua đồ thị hình 3.9. Kết quả nghiên cứu cho thấy chủng B. subtilis B5 có khả năng sinh tổng hợp γ-PGA cao nhất ở nhiệt độ 40oC, tạo ra γ-PGA đạt giá trị lớn nhất 9,07 g/l tại thời điểm 96h lên men. 3.3.3.Ảnh hưởng của tốc độ lắc. Tốc độ lắc của quá trình lên men được khảo sát ở tốc đô từ 0 – 200 v/p, tốc độ lắc là thông số đánh giá mức độ cung cấp khí cho môi trường lên men. Hình 3.9. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình sinh tổng hợp γ-PGA Hình 3.10 Ảnh hưởng của tốc độ lắc đến quá trình sinh tổng hợp γ-PGA Kết quả biểu diễn ở hình 3.10 cho thấy: lượng γ-PGA đạt giá trị lớn nhất ở tốc độ 0 v/p (10,36 g/l ), khi tốc độ lắc càng cao xu hướng hình thành γ-PGA càng giảm. Đối với mẫu nuôi tĩnh do không tạo áp lực tác động lên lớp vỏ tế bào, nên sự hình thành γ-PGA không bị ảnh hưởng, việc cung cấp oxy hòa tan cho môi trường lên men trong bình tam giác của các mẫu thí nghiệm vừa đủ để vi khuẩn sinh trưởng và tổng hợp γ-PGA. Do vậy, phương án nuôi tĩnh được lựa chọn cho các quá trình nghiên cứu tiếp theo trên quy mô thí nghiệm. 9 3.3.4. Ảnh hưởng của pH. Nghiên cứu ảnh hưởng của pH môi trường tới chủng B. subtilis B5, tiến hành khảo sát ở các giá trị pH từ 5 – 9. Kết quả cho thấy sự ảnh hưởng của pH đến sự phát triển và sinh trưởng của vi khuẩn B. subtilis B5 thể hiện rất rõ tại các giá trị pH = 5 và pH =9, khả năng sinh tổng hợp γ-PGA hầu là không thấy. Sự hình thành γ-PGA tăng mạnh trong khoảng pH từ 6 đến 8 trong thời gian 96h. Giá trị γ-PGA cao nhất (13,03 g/l) tại thời điểm 96h trong môi trường có pH = 8. 3.3.5. Ảnh hưởng của nguồn carbon đến khả năng sinh tổng hợp γ-PGA. Nguồn carbon là phần cốt lõi để tạo lên bộ khung tế bào vi sinh vật giúp sinh trưởng, phát triển, sinh tổng hợp γ-PGA, nguồn carbon phù hợp sẽ giúp sự phát triển của vi khuẩn Bacillus ... PGA bằng phương pháp điện di trên SDS Page các mẫu sau khi tinh sạch cho thấy khối lượng phân tử các mẫu sau khi chạy điện di với marker hiển thị màu chuẩn có thể xác định được khối lượng phân tử của γ- PGA lớn hơn 176 kDa. Đánh giá khối lượng phân tử trung bình của sản phẩm γ-PGA trên sắc ký lọc gel (GPC) kết quả được sau khi tính toán dựa trên peak thu nhận được khối lượng phân tử trung bình Mw của γ-PGA dao động trong khoảng từ 158 – 426 Kda. Đối chiếu và so sánh với các nghiên cứu về γ-PGA tạo ra bởi chủng Bacillus subtilis cho thấy thông thường có khối lượng phân tử từ 100 – 1.500 kDa. 3.8.2. Tỷ lệ đồng phân D – Glutamic và L – Glutamic trong γ- PGA Từ γ-PGA được tạo thành từ B. subtilis B5 sau khi thủy phân băng axit và làm sạch sản phẩm đến độ tinh khiết nhất định, tiến hành đo độ phân cực của hỗn hợp đồng phân quang học D và L glutamic. Sau khi tinh toán cho thấy tỷ lệ D:L glutamic axit là 47,97/52,03 trong hỗn hợp poly γ glutamic axit sản sinh bởi B. subtilis B5. Kết quả này cũng một lần nữa khẳng định cho nguồn gốc chủng giống sinh tổng hợp γ-PGA là B. subtilis. 3.8.3. Nghiên cứu tính bền axit của γ-PGA. Nghiên cứu thử nghiệm ảnh hưởng tính chất của γ-PGA trên các môi trường axit citric có nồng độ từ 0 – 30g/l qua việc xác định độ nhớt của dịch thử nghiệm để đánh giá mức độ ảnh hưởng của nồng độ axit đến chất lượng ổn định sản phẩm của γ-PGA tại nồng độ 1 g/l. Bảng 3.14. Ảnh hưởng của axit đến tính chất của sản phẩm γ-PGA Axit citric (g/l) 0 5 10 15 20 25 30 pH 7 3,45 2,94 2,74 2,6 2,46 2,38 Độ nhớt (cp) 4,5 ± 0,04 4,0 ± 0,03 4,0 ± 0,03 3,5 ± 0,02 3,0 ± 0,01 2,5 ± 0,01 3,0 ± 0,01 Kết quả khi nồng độ axit tăng (độ pH giảm) khả năng tạo nhớt của γ-PGA giảm đi, đến nồng độ axit 20g/l sự biến đổi độ nhớt không có sự thay đổi nhiều. Qua khảo sát này kết luận có thể sử dụng γ-PGA trong các sản phẩm đồ uống có độ axit cao. 3.8.4. Nghiên cứu tính bền nhiệt của γ-PGA 18 Để tìm hiểu về ảnh hưởng của nhiệt độ đến độ nhớt của γ-PGA hay tính bền nhiệt, tiến hành nghiên cứu với γ-PGA nồng độ 1 g/l để ở các nhiệt độ 25oC; 50oC; 75oC; 100oC và 125oC trong thời gian 30 phút. Hình 3.31. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự biến đổi độ nhớt của dịch γ-PGA Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng độ nhớt γ-PGA tỷ lệ nghịch với nhiệt độ, khi bị tác động của nhiệt độ càng cao độ nhớt của γ-PGA càng giảm. Mức độ giảm độ nhớt của γ-PGA là rất nhỏ trong khoảng nhiệt độ từ 75-100oC. Đây cũng là một đặc tính ưu việt khi sử dụng γ-PGA áp dụng cho mỗi loại sản phẩm trong thực tế. 3.9. Nghiên cứu hoàn thiện chế phẩm γ-PGA 3.9.1. Nghiên cứu các thông số cho sấy phun chế phẩm γ-PGA Sau khi nghiên cứu trên thực nghiệm thu được kết quả sấy phun tốt nhất đối với chế phẩm γ-PGA trong bảng 3.14: Bảng 3.14. Các thông số sấy phun cho chế phẩm γ-PGA 3.9.2. Đánh giá mức độ an toàn của γ-PGA trong việc sử dụng làm phụ gia thực phẩm. Căn cứ theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN 4- 21:2011/BYT) về phụ gia thực phẩm – với các loại phụ gia chất làm dày. Căn cứ vào công bố sử dụng γ-PGA sản xuất từ vi khuẩn B. Chỉ tiêu Thông số Chất trợ sấy: Maltodextrin 5% Nhiệt độ sấy 160 oC Tốc độ đĩa phun 11.00-12.000 v/ph Hiệu suất thu hồi 85,8 -90,4% Lưu lượng dịch cấp 5 lít/h Đánh giá cảm quan Bột khô, hút ẩm chậm, màu trắng, dễ lấy sau khi sấy phun. Độ hòa tan tốt, không bị vón khi hòa tan 19 subtilis của Công ty Ajinomoto đã công bố đến Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ về việc chấp nhận sử dụng γ-PGA từ B. subtilis như một loại phụ gia thực phẩm an toàn. Sau khi áp dụng những quy chuẩn kỹ thuật, sản phẩm γ-PGA được đem đi phân tích kiểm nghiệm tại các phòng thí nghiệm đươc nhà nước công nhận. Từ các kết quả phân tích cùng một số mẫu được kiểm tra tại cơ quan chức năng, sản phẩm γ-PGA đã được Cục vệ sinh An toàn thực phẩm xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm cho sản phẩm PGA. Liều dùng thấp hơn 0,1% khối lượng sử dụng. 3.10. Nghiên cứu ứng dụng γ-PGA trong ổn định nước cam 3.10.1. Khảo sát chất lượng nguyên liệu Kết quả khảo sát thể hiện cam nguyên liệu có tỉ lệ vitamin C khá cao 40mg%, hàm lượng đường tổng số ở mức 9,0% cùng với hàm lượng axit hữu cơ tổng số 0,6 %. Sau khi đánh giá các công thức, tỷ lệ phối trộn trong nước cam cho thấy với tỷ lệ nước cốt chiếm 30% là phù hợp cho quá trình nghiên cứu tiếp theo. 3.10.2. So sánh ảnh hưởng của γ-PGA đến độ ổn định của nước cam với các phụ gia khác 3.10.2.1. Đánh giá ảnh hưởng của γ-PGA và các phụ gia ổn định khác thông qua chỉ số huyền phù: Sử dụng γ-PGA cùng các loại phụ gia ổn định khác như CMC, Xanthan Gum, Agar ở cùng một nồng độ như nhau là 0,05%, chế biến ở cùng một chế độ công nghệ, sau khi phối chế, thanh trùng, bảo ôn và sau bảo ôn được đem đi phân tích chỉ số huyền phù không bền theo phương pháp Krop để đánh giá mức độ phân tách của sản phẩm, cho kết quả trong đồ thị hình 3.32. Hình 3.32. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của γ-PGA và các phụ gia thường dùng khác trong việc ổn định cho nước cam 20 Chỉ số huyền phù không bền được sử dụng để đánh giá độ ổn định của nước cam. Nếu chỉ số này càng cao đồng nghĩa với chất lượng nước cam càng kém ổn định. Trước thanh trùng mẫu nước cam có bổ sung CMC có chỉ số huyền phù không bền thấp nhất nên độ ổn định cao nhất, trong khi đó độ ổn định của mẫu chứa γ-PGA thấp nhất. Tuy nhiên, sau quá trình thanh trùng, độ ổn định của nước cam có sử dụng γ-PGA tăng lên rõ rệt và còn cao hơn cả mẫu chứa CMC. Sau quá trình bảo ôn chỉ số huyền phù không bền trong tất cả các mẫu đều tăng dần phản ánh độ ổn định giảm nhưng mẫu chứa γ- PGA vẫn giữ được độ ổn định cao hơn mẫu không bổ sung hóa chất khá nhiều. Hơn nữa, độ ổn định của mẫu bổ sung γ-PGA này đạt được thậm chí là vượt so với các mẫu bổ sung hai loại phụ gia thông dụng như CMC và Xanthan gum. Do đó γ-PGA có thể sử dụng làm phụ gia làm ổn định nước cam đầy tiềm năng, bởi nó giữ cho nước cam được luôn ở trạng thái đồng nhất, không bị lắng cặn, tách lớp. 3.10.2.2. Ảnh hưởng của γ-PGA và các phụ gia ổn định nước cam thông qua sự biến đổi độ nhớt. Sự ảnh hưởng của các chất phụ gia đến chất lượng nước cam đối với các chất phụ gia được khảo sát cho thấy các chỉ số độ nhớt của các mẫu đều bị giảm sau quá trình thanh trùng, điều đó chứng tỏ sự ảnh hưởng nhiệt độ đến ổn định cấu trúc của các phụ gia. Lý giải cho hiện tượng độ nhớt giảm sau thời gian bảo quan là do nồng độ axít trong nước cam ảnh hưởng đến độ bền của các cấu trúc phân tử các phụ gia này gây ra hiện tượng phân cắt mạch làm giảm độ nhớt 3.10.2.3. Ảnh hưởng γ-PGA đến màu sắc sản phẩm nước cam. Tổng thể theo mức độ thay đổi màu sắc chung ΔE cho thấy sự thay đổi màu sắc theo thời gian cho thấy sự biến đổi nhiều nhất của mẫu γ-PGA, mẫu Xanthan Gum và mẫu CMC xu hướng biến đổi màu sắc của các mẫu nước cam này là màu nhạt đi, thiên về màu vàng, các mẫu sử dụng Agar và mẫu đối chứng màu sắc sản phẩm không thay đổi nhiều, tuy nhiên có xu hướng sẫm màu, chuyển sang màu đen, giảm tính cảm quan của sản phẩm. 3.10.2.4. Đánh giá tính chất cảm quan của sản phẩm nước cam có sử dụng γ-PGA và các loại phụ gia khác. Kết quả đánh giá cảm quan trên các tiêu chí mùi, vị và trạng thái các chất ổn định như: Xanthan gum, γ-PGA và CMC cho điểm đánh giá cao, sản phẩm chất lượng đồng nhất sau quá trình bảo ôn. Qua 21 đánh giá cảm quan về chất lượng sản phẩm khi sử dụng γ-PGA và một số phụ gia khác trong ổn định chất lượng sản phẩm nước cam, cho thấy γ-PGA có khả năng ổn định trong môi trường nước quả có độ axít từ 3g/l đến 5 g/l, tương tự như các chất phụ gia cùng loại như CMC và Xanthan Gum 3.10.3. Xác định tỷ lệ bổ sung γ-PGA vào nước cam Tiến hành các thí nghiệm với các nồng độ γ-PGA là 0,05%; 0,10%; 0,15% và 0,20% trong sản phẩm nước cam, sau đó đem đi đánh giá chất lượng cảm quan của sản phẩm. Bảng 3.21. Chất lượng cảm quan của nước cam ép đục ở các tỷ lệ bổ sung γ-PGA Chỉ tiêu đánh giá cảm quan Nồng độ bổ sung γ-PGA trong nước cam (%) ĐC 0,05 0,10 0,15 0,20 Tổng điểm chưa có hệ số trọng lượng 12 13,5 13,2 12,1 11,7 Điểm chất lượng 16,52 17,8 17,41 15,6 15,04 Xếp loại Khá Khá Khá Khá TB Kết quả thu được với nồng độ γ-PGA là 0,05% cho điểm chất lượng cao nhất, có điểm cảm quan về màu sắc, mùi vị và hình thái cao. Lựa chọn công thức tương ứng với tỷ lệ bổ sung γ-PGA cho sản phẩm là 0,05%. 3.10.4. Ảnh hưởng của chế độ thanh trùng tới chất lượng cảm quan của nước cam Nhiệt độ 80oC, 90oC và thời gian 5, 10, 15 phút sản phẩm có hương tốt và màu sắc thì không đổi vàng đẹp. Ở nhiệt độ 100oC thì thời gian là 5 phút thì màu sắc và hương vị không đổi nhưng thanh trùng ở 10 phút và 15 phút thì sản phẩm có mùi nấu chín. Do vậy nghiên cứu đã đưa ra lựa chọn thanh trùng nước cam ở nhiệt độ 90oC cho thanh trùng nước cam có sử dụng γ-PGA nồng độ 0,05% trong thời gian 10-15 phút. 3.11. Nghiên cứu ứng dụng γ-PGA trong cải thiện chất lượng giò 3.11.1. Ảnh hưởng của các loại phụ gia đến độ dẻo của khối thịt xay. Nghiên cứu này được dùng để đánh giá mức độ nhuyễn, độ dẻo của khối thịt khi sử dụng mỗi loại phụ gia. Các phụ gia được sử dụng trong nghiên cứu gồm γ-PGA, sodium tripolyphosphate (STPP), 22 borac (hàn the), tinh bột biến tính (TBBT) và chitosan là những phụ gia đã được sử dụng và không được sử dụng trong ngành chế biến thực phẩm hiện nay. Các phụ gia được sử dụng mức giới hạn của Bộ Y tế cho phép và phụ gia bị cấm trong danh mục (hàn the) được sử dụng theo kinh nghiệm thực tế (0,1 – 0,5%), mục đích của việc sử dụng phụ gia bị cấm nhằm so sánh, gợi mở ra những thay đổi trong việc sử dụng phụ gia an toàn trong thực phẩm hình 3.36. Hình 3.36. Biểu đồ ảnh hưởng của phụ gia tạo cấu trúc đến chất lượng khối thịt xay. Hình 3.37. Biểu đồ lực nén và lực cắt của giò thành phẩm 3.11.2. Ảnh hưởng của các loại phụ gia đến chất lượng của giò. 3.11.2.1 Đánh giá chất lượng giò qua thông số lực nén và lực cắt. Sự thay đổi về tính chất, cấu trúc của khối thịt xay trong quá trình làm giò đã phần nào đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các loại phụ gia đến quá trình chế biến thực phẩm. Tuy nhiên để phân tích đánh giá cấu trúc của sản phẩm cần đánh giá trên các mẫu sản phẩm cuối cùng. Các mẫu phụ gia được bổ sung vào các mẫu giò nghiên cứu sau đó được chế biến trong cùng một điều kiện (bao gói tiêu chuẩn, nhiệt độ, thời gian chế biến, thành phần phụ như nhau) các mẫu được bảo ôn và đem đi phân tích trên máy đo cấu trúc cho kết quả trong hình 3.37. Khi kết hợp giữa hai yếu tố lực nén và lực cắt lên sản phẩm giò có thể đánh giá được mức độ giòn, cứng của sản phẩm. Nhìn vào biểu đồ 3.37 về lực nén (LN) và lực cắt (LC) của máy đo cấu trúc phân tích giò thành phẩm cho thấy lực nén của các mẫu có sử dụng Chitosan và γ-PGA là lớn nhất, đồng nghĩa với độ đàn hồi và độ cứng của giò thành phẩm là tốt nhất. Để đánh giá mức độ đồng nhất, độ đàn hồi về cấu trúc của giò tiến hành thử nghiệm cường lực gel 23 đối với các mẫu khi sử dụng các loại phụ gia khác nhau, kết quả cho thấy cường lực gel lớn nhất ở mẫu có sử dụng chitosan thấp hơn nữa lần lượt là các mẫu chứa γ-PGA; STPP; Tinh bột biến tính và thấp nhất là hàn the và mẫu đối chứng. Qua phân tích về cường lực gel một lần nữa khẳng định việc sử dụng chitosan và γ-PGA làm phụ gia ổn định cải thiện cấu trúc trong sản phẩm giò lụa là ưu việt và an toàn. 3.11.2.2. Đánh giá chất lượng giò sử dụng các loại phụ gia tạo cấu trúc bằng phương pháp cảm quan Các mẫu giò sau khi được đánh giá qua phân tích lực nén, lực cắt được phân tích bằng phương pháp cảm quan để đánh giá chất lượng, kết quả cho thấy: Khả năng sử dụng các loại phụ gia thực phẩm trong việc ổn định và cải thiện chất lượng của giò được thử nghiệm so sánh giữa γ-PGA và 4 loại phụ gia khác hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thị thường sản xuất, cho thấy γ-PGA có khả năng ổn định trạng thái, cho màu sắc đặc trưng của giò tươi, có thể thay thế các phụ gia độc hại như hàn the, tạo cấu trúc trong sản phẩm giò tốt hơn khi sử dụng các hợp chất photphat và các loại tinh bột biến tính. Về mặt ứng dụng thực tiễn và hiệu quả kinh tế chưa đáp ứng được như chitosan, nhưng ở một góc độ nhất định γ-PGA có khả năng tạo màu cho sản phẩm nên đây cũng là một lợi thế của γ-PGA trong quá trình ứng dụng. 3.11.3. Khảo sát nồng độ γ-PGA đến chất lượng của giò. Nghiên cứu về ảnh hưởng của γ-PGA đến khả năng ổn định, cải thiện cấu trúc của giò cho thấy ở nồng độ 0,1% γ-PGA cải thiện được chất lượng giò tốt hơn các phụ gia hiện đang sử dụng trên thị trường. Từ nghiên cứu thực tế cho thấy có thể sử dụng γ-PGA nồng độ 0,20% làm phụ gia trong chế biến giò, nhằm cải thiện chất lượng giò, thay thế cho hàn the đang sử dụng tràn lan trên thị trường chế biến. KẾT LUẬN Sau một quá trình nghiên cứu, luận án đã thu được kết quả cơ bản sau: Từ các mẫu thực phẩm truyền thống đã phân lập được 27 chủng vi khuẩn và đã tuyển chọn được chủng B5 có khả năng sinh tổng hợp γ-PGA cao từ sản phẩm tương Bần. Bằng phương pháp xác định đặc 24 điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và sinh học phân tử đã định tên được chủng B5 là B. subtilis B5. Bằng phương pháp khảo sát đơn yếu tố và phương pháp quy hoạch thực nghiệm bậc 2 Box- Bernken đã xác định được điều kiện tối ưu chủng B. subtilis B5 sinh tổng hợp γ-PGA cao: tiền chất natri glutamat là 25 g/l, axit citric 15 g/l, NH4NO3 15 g/l, tỷ lệ cấp giống 5%, nuôi tĩnh ở nhiệt độ 39,7oC, pH = 8 sau thời gian 97 giờ thu nhận γ-PGA có nồng độ 25,02 g/l. Đã đưa ra quy trình thu nhận, tinh sạch chế phẩm γ-PGA dạng bột: Chủng giống Lên men Dịch lên men Bổ sung H2O gia nhiệt (100oC) Tảy màu, tảy mùi Lọc thô Lọc tinh Kết tủa bằng cồn 98% (2 lần, tỷ lệ 3:1) Thẩm tích γ-PGA Sấy phun (maltodextrin 5%, nhiệt độ 160oC ở 11.000 v/p, lưu lượng cấp dịch 5 l/h) Chế phẩm γ- PGA dạng bột. Hiệu suất thu hồi γ-PGA trên thực tế triển khai quy mô pilot so với tính toán lý thuyết đạt 95%. Đã xác định được cấu trúc và một số đặc tính của sản phẩm γ- PGA thu được: Mw>158 kDa, trong γ-PGA có chứa α NH+ và γ COO-; tỷ lệ đồng phần D:L glutamic – 47,97:52,03; có tính chất nhớt trong vùng axít từ pH 2,5 đến 7,0; bền nhiệt trong khoảng 25–125oC và đáp ứng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, về vi sinh vật và hàm lượng kim loại nặng. Bước đầu thử nghiệm ứng dụng γ-PGA 0,05% trong ổn định nước cam tự nhiên và 0,1- 0,2% trong sản phẩm giò lụa cho kết quả tốt. Chế phẩm γ-PGA có thể dùng để thay thế hàn the trong chế biến bảo quản giò cũng như các sản phẩm chế biến từ thịt khác. Các hướng nghiên cứu tiếp tục dự kiến. - Nghiên cứu ứng dụng γ-PGA trong lĩnh vực nông nghiệp và mỹ phẩm - Nghiên cứu tạo γ-PGA từ các phụ phẩm của nhà máy chế biến thực phẩm - Nghiên cứu sản xuất các túi đựng sinh học từ γ-PGA
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_sinh_tong_hop_va_thu_nhan_axit_po.pdf