Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam - Chương 2: Hành chính Nhà nước trong thời kỳ chống XL và đồng hoá của PK phương Bắc

I. Triệu Đà xâm lược nước ta và tổ chức hành chính Nhà nước Nam Việt

 

II. Nhà Hán bành trướng về phương Nam và tổ chức hành chính ở nước ta trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng

 

III. Hai Bà Trưng khởi nghĩa và tái lập bộ máy hành chính của Nhà nước tự chủ

 

IV. Tổ chức hành chính ở nước ta từ năm 43 đến thế kỷ thứ X

 

V. Chính sách cai trị của phương Bắc áp dụng ở nước ta

ppt 111 trang Bích Ngọc 03/01/2024 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam - Chương 2: Hành chính Nhà nước trong thời kỳ chống XL và đồng hoá của PK phương Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam - Chương 2: Hành chính Nhà nước trong thời kỳ chống XL và đồng hoá của PK phương Bắc

Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam - Chương 2: Hành chính Nhà nước trong thời kỳ chống XL và đồng hoá của PK phương Bắc
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH 
Môn học: 
Lịch sử hành chính 
Nhà nước Việt Nam 
ThS. Nguyễn Xuân Tiến 
Tel: 0913 968 965 
Email:	xtiennapa@yahoo.com 
Chương 2 
Hành chính Nhà nước trong thời kỳ chống xâm lược và đồng hoá của phong kiến phương Bắc 
(từ năm 208 trước công nguyên đến thế kỷ thứ X) 
I. Triệu Đà xâm lược nước ta và tổ chức hành chính Nhà nước Nam Việt 
II. Nhà Hán bành trướng về phương Nam và tổ chức hành chính ở nước ta trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 
III. Hai Bà Trưng khởi nghĩa và tái lập bộ máy hành chính của Nhà nước tự chủ 
IV. Tổ chức hành chính ở nước ta từ năm 43 đến thế kỷ thứ X 
V. Chính sách cai trị của phương Bắc áp dụng ở nước ta 
I. Triệu Đà xâm lược nước ta và tổ chức hành chính Nhà nước Nam Việt 
Năm 207 tr.CN, Triệu Đà là tướng nhà Tần làm Quận úy quận Hải Nam chiếm được Âu Lạc, đã sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải, thôn tính luôn hai quận Quế Lâm và quận Tượng của Nhà Tần lập nên nước Nam Việt. 
Triệu Đà xưng Vua, lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung. 
Triệu Đà và Nam Việt 
Từ năm 207 
Đến năm 110 
Nhà nước Nam Việt 
Thời đại Triệu Vũ Vương 
(Triệu Đà) 
Kinh đô 
Phiên Ngung 
(Quảng Đông) 
Nhà nước Nam Việt – thời gian tồn tại 
Công nguyên 
Cách thức tổ chức và vận hành của bộ máy cai trị 
Thiết lập bộ máy cai trị trong cả nước theo mô hình Tần – Hán. Là kiểu nhà nước nô lệ điển hình đang trong quá trình phong kiến hóa. 
Cách thức tổ chức và vận hành của bộ máy cai trị 
Đặc trưng của chế độ phong kiến hóa là: 
Lãnh chúa phong kiến được tham gia vào bộ máy hành chính; 
Các chủ nô, các thế lực quân sự cũng được chuyển hóa thành các lãnh chúa phong kiến và được tham gia vào bộ máy hành chính để cai quản xã hội. 
Cách phân chia và sắp xếp các đơn vị hành chính ở Trung ương và địa phương. 
-Tổ chức bộ máy hành chính 
Tổ chức hành chính thời nhà Triệu 
Nhà Triệu 
(VUA) 
Quận 
( Thái thú ) 
Quận 
( Quan sứ ở Giao Chỉ, Cửu Chân) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Ở Trung ương: Triệu Đà nắm quyền tối cao về mọi lĩnh vực, năm 206 tr.CN xưng Vương, năm 103 tr.CN xưng Đế là danh xưng cao nhất đại diện cho thể chế phong kiến Trung ương tập quyền . Nhà Triệu duy trì chế độ thế tập cha truyền con nối ngôi vua được 5 đời . 
Nhà triệu luôn chăm lo xây dựng bộ máy hành chính- quân sự để cai trị đất nước và tiến hành các cuộc chiến tranh chinh phạt. 
Vua là ngôi vị nắm quyền cao nhất, Vua còn lập các ngôi vị Thái Hậu , Hoàng Hậu , chức vụ Thừa Tướng , Tể Tướng chăm lo cho tất cả việc triều chính từ đối nội, đối ngoại cho đến việc binh bị chiến tranh. 
Về hành chính các cấp ở địa phương 
Chia Nam Việt thành 7 quận gồm: 
Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, 
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật nam. 
Phần lãnh thổ nước ta chia làm 3 quận: 
Giao Chỉ (phần Bắc bộ ngày nay), Cửu 
Chân (vùng từ Thanh Hóa đến hết Hà Tỉnh), 
Nhật Nam (Quảng Bình – Quảng Trị). 
Bản đồ Lĩnh Nam (Thế kỷ 1 Tây Lịch) 
Đứng đầu quận là Thái Thú , riêng Giao Chỉ và Cửu Chân (lãnh thổ nước ta) thì đặt chức Quan Sứ (là sứ giả của nhà Triệu trực tiếp cai trị). Quan Sứ được bổ nhiệm từ Phiên Ngung, thực hiện nhiệm vụ thu thuế và các khoản cống nộp của dân để tổ chức vận chuyển về triều đình. 
Phần đất của quận Nhật Nam (từ Đèo Ngang trở vào) nằm ngoài sự cai trị của nhà Triệu. 
Dưới cấp hành chính quận vẫn duy trì cấp hành chính Bộ Lạc như thời Hùng Vương – An Dương Vương. 
Chế độ Lạc tướng, Lạc hầu vẫn theo thế tập cha truyền con nối. 
Tổ chức hành chính Dưới cấp hành chính quận vẫn duy trì thời Hùng Vương - An Dương Vương 
QUẬN 
(Thái thú)-(Quan sứ ở Giao Chỉ, Cửu Chân) 
Bộ Lạc 
Bồ Chính 
Kẻ 
(Già làng, già bản, b ơ lão) 
(Bồ đinh, Bồ chính) 
(Lạc hầu, Lạc tướng) 
Bộ Lạc 
Bồ Chính 
Bồ Chính 
Kẻ 
Kẻ 
Tổ chức hành chính thời nhà Triệu 
Nhà Triệu 
(VUA) 
Quận 
( Thái thú ) 
Quận 
( Quan sứ ở Giao Chỉ, Cửu Chân) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Các đơn vị hành chính cấp cơ sở 
Các đơn vị hành chính cấp cơ sở “Kẻ” – làng Việt cổ hầu như còn giữ nguyên truyền thống kinh tế - văn hóa – phong tục vẫn được bảo lưu . Đứng đầu “kẻ” – làng Việt cổ vẫn là “Già Làng”, “Già Bản” theo kiểu lệ làng. 
Về quân sự 
Nhà triệu đặt bên cạnh các Quan Sứ là các đồn trú với đội ngũ quân sỹ do quan võ chỉ huy để giúp Quan Sứ kiểm soát các Lạc hầu, Lạc tướng và các khu vực trong quận. 
QUẬN 
(Thái thú)-(Quan sứ) 
 Đội ngũ quân sỹ do quan võ chỉ huy để giúp Quan Sứ kiểm soát các Lạc hầu, Lạc tướng và các khu vực trong quận 
Bộ Lạc 
Bồ Chính 
Kẻ 
(Già làng, già bản, b ơ lão) 
(Bồ đinh, Bồ chính) 
(Lạc hầu, Lạc tướng) 
Bộ Lạc 
Bồ Chính 
Bồ Chính 
Kẻ 
Kẻ 
Triệu Đà và Nam Việt 
Bản đồ Lĩnh Nam (Thế kỷ 1 Tây Lịch) 
Địa bàn sinh sống của các bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt [3,19] 
Vị trí nước Âu Lạc thời đại Hùng Vương [3,22] 
II. Nhà Hán bành trướng về phương Nam và tổ chức hành chính ở nước ta trước khởi nghĩa 
 Hai Bà Trưng 
Nhà Tây Hán thu phục toàn bộ đất đai Nam Việt trong khoảng 2 năm (111-110 tr.CN). 
Nhà Tây Hán thiết lập chế độ hành chính quận, huyện theo mô hình nhà hán. 
Nhà Hán chia Nam Việt thành 9 quận : Chu Nhai, Đạm Nhỉ, Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngõ, và 3 quận thuộc vùng đất Văn Lang – Âu Lạc xưa là Giao Chỉ , Cửu Chân , Nhật Nam. 
Bản đồ Lĩnh Nam (Thế kỷ 1 Tây Lịch) 
Từ năm 110 
Từ năm 40 
Thời đại nhà HÁN 
(Hán Vũ Đế) 
Hành chính ở nước ta 
trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 
Công nguyên 
Đến Năm 43 
Khởi nghĩa 
HAI BÀ TRƯNG 
(đóng Đô Mê Linh) 
Tổ chức lại bộ máy 
Năm 106 tr. CN Nhà Hán phân chia cấp quận thành các đơn vị hành chính cấp huyện thay cho Bộ Lạc (Triệu Đà – Nam Việt) 
Ba quận Giao Chỉ , Cửu Chân , Nhật Nam chia thành 22 huyện. 
Giao Chỉ : 10 huyện 
Cửu Chân : 7 huyện 
Nhật Nam: 5 huyện 
Giao chỉ là quận lớn nhất trong các quận nên đặt chức Thứ Sử đứng đầu 
Các quận khác đặt chức Thái Thú đứng đầu cùng với Thái Thú có chức quan Đô Úy là quan Võ nắm trong tay một số quân lính đồn trú cai quản quận. 
Nhà Hán 
(VUA) 
Quận 
( Thái Thú/Quận Thừa – Đô Uý (Võ) ) 
Có các Tào giúp việc 
Quận 
( Thứ Sử ở Giao Chỉ) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Tổ chức hành chính thời nhà Triệu 
Nhà Triệu 
(VUA) 
Quận 
( Thái thú ) 
Quận 
( Quan sứ ở Giao Chỉ, Cửu Chân) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Bộ Lạc 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Tổ chức hành chính thời nhà HÁN 
Nhà Hán 
(VUA) 
Quận 
( Thứ Sử ở Giao Chỉ) 
Quận 
( Thái Thú/Quận Thừa – Đô Uý (Võ) ) 
Có các Tào giúp việc 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Bộ máy hành chính cấp quận 
Bên cạnh Thái Thú còn đặt chức Quận Thừa để giúp việc và thay mặt quan Thái Thú khi đi vắng. 
Bộ máy giúp quan Thái Thú là các Tào phụ trách các mãng công việc. Đứng đầu các tào là các quan duyên sử. Trong mỗi tào có nhiều nhân viên giúp việc trông coi những công việc hành chính khác nhau. 
QUẬN 
Thứ sử (quận Giao Chỉ) 
Thái thú các quận khác 
Quan Văn 
( Quận Thừa ) 
Quan Võ 
( Đô Uý ) 
Các TÀO giúp việc 
Thứ sử (quận Giao Chỉ) 
Thái thú các quận khác 
Quận Thừa 
Đô Uý 
Đều là người HÁN 
Các quan 
Bộ máy hành chính cấp huyện 
Dưới cấp quận là hành chính cấp huyện 
Đứng đầu là Huyện Lệnh, ăn lương của nhà nước được tính bằng thóc, tùy huyện lớn hay bé mà huyện lệnh được hưởng thóc nhiều hay ít. 
Các quận Giao Chỉ , Cửu Chân , Nhật Nam thì các chức Huyện Lệnh do các Lạc Hầu, Lạc Tướng nắm giữ, nhà Hán chưa thể khống chế được cấp huyện. 
HUYỆN 
(Lạc hầu/lạc tướng) 
Huyện Lệnh 
Quan Văn 
(Viên Thừa) 
Quan Võ 
(Viên Uý) 
Các TÀO giúp việc 
BỘ LẠC 
(Lạc hầu/lạc tướng) 
HUYỆN 
(Lạc hầu/lạc tướng) 
Huyện Lệnh 
Thời 
Nhà Triệu 
Thời 
Nhà HÁN 
Tổ chức hành chính thời nhà HÁN 
Thời 
Nhà TRIỆU 
Quận 
Quận 
BỘ LẠC 
(lạc tướng) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Thời 
Nhà HÁN 
Bên cạnh huyện lệnh có một quan Văn gọi là Viên Thừa và hai quan Võ gọi là Viên Úy. 
Bộ máy cấp huyện cũng có các Tào giúp đảm trách các công việc khác nhau. 
HUYỆN 
(Lạc hầu/lạc tướng) 
Huyện Lệnh 
Quan Văn 
(Viên Thừa) 
Quan Võ 
(Viên Uý) 
Các TÀO giúp việc 
Cấp hành chính cơ sở 
“Kẻ” và làng Việt cổ 
Vẫn cơ cấu tổ chức theo tục lệ thuần Việt . 
Sức sống của làng Việt cổ các “Kẻ” vẫn duy trì được bản sắc truyền thống mạnh mẽ của mình trước chính sách đồng hóa của nhà Hán. 
Về chính sách 
Nhà hán dùng chính sách “Dĩ Di công Di” trong cai trị hành chính từ cấp huyện đến cấp cơ sở. 
Các chính sách cai trị của Nhà nước 
Tổ chức hành chính thời nhà HÁN ở nước ta 
Triều đình 
nhà Hán 
Quận 
Nhật Nam 
Quận 
Giao Chỉ 
Quận 
Cửu Chân 
Kẻ 
làng Việt cổ 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
III. Hai Bà Trưng khởi nghĩa và tái lập bộ máy hành chính của Nhà nước tự chủ 
Hai bà trưng khởi nghĩa 
Cuộc khởi nghĩa hai bà trưng thắng lợi đã giải phóng 56 huyện thuộc 7 quận đất liền của nước Nam Việt ra khỏi ách đô hộ của nhà Hán. 
Từ năm 110 
Từ năm 40 
Thời đại nhà HÁN 
(Hán Vũ Đế) 
Hành chính ở nước ta 
trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 
Công nguyên 
Đến Năm 43 
Khởi nghĩa 
HAI BÀ TRƯNG 
(đóng Đô Mê Linh) 
Hai bà trưng đã tái lập một nền hành chính của nhà nước tự chủ của Dân tộc ta sau mấy năm chịu cai trị của nhà HÁN. Làm vua đóng đô ở Mê Linh . 
Trưng Vương lên ngôi, thiết lập bộ máy cai trị của triều đình nhà nước tự chủ. 
Triều đình Trưng Vương là tượng trưng của nền độc lập dân tộc. 
Cách thức tổ chức và vận hành của bộ máy cai trị (QLNN) 
Trưng Vương bắt tay ngay vào việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý , điều hành đất nước, ban hành các chính sách để ổn định và phát triển cuộc sống của nhân dân. 
Triều đình Trưng Vương có các chức như: 
Tả tướng 
Hữu tướng 
Tướng tiên phong 
Đại tướng 
Bộ máy được tổ chức theo mô hình hành 
chính quân sự. 
Tổ chức hành chính ở Trung ương và địa phương 
Trên danh nghĩa thống nhất một cõi gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cả các Huyện phía Nam của Quảng Đông – Quảng Tây (Trung Quốc). 
Tuy nhiên thời gian ngắn, buổi ban đầu dựng nước, triều đình Trưng Vương chưa thể kiểm soát hoàn toàn được hết toàn bộ các địa dư lãnh thổ hành chính trên. 
Sự phân vùng lãnh thổ , dân số. (phân giới, địa giới hành chính) 
Ban chính sách không thu thuế hộ, 
thuế điền cho 2 quận Giao Chỉ và 
Cửu Chân hai năm. 
Các chính sách của Triều đình Trưng Vương 
Các chính sách của Triều đình Trưng Vương 
Ban hành những chính sách để giải quyết 
ổn định cuộc sống cho nhân dân và phát 
Triển Kinh tế-xã hội. 
Đến năm 43, nhà nước tự chủ của triều đình Trưng Vương bị ngoại xâm đánh bại. Đất nước ta lại rơi vào vòng nô lệ, áp bức của nhà Đông Hán. 
IV. Tổ chức hành chính ở nước ta từ năm 43 đến thế kỷ thứ X 
Từ năm 43 
Đến thế kỷ X 
Thời Hán 
Nhà nước ta thời gian tồn tại 
CN 
Hành chính nước ta dưới thời Đông Hán 
Bộ máy hành chính cấp huyện , bỏ chính sách “Dĩ Di Công Di” bổ nhiệm các quan lại người Hán xuống trực tiếp cai trị. 
Các Lạc Hầu, Lạc Tướng thế tập giữ chức Huyện lệnh thời Tây Hán bị bãi bỏ. 
Hành chính nước ta dưới thời Đông Hán 
Địa giới hành chính nước ta là thuộc 3 quận trong 9 quận của bộ Giao Chỉ. 
Quận Giao Chỉ: có 12 huyện 
Quận Cửu Chân : có 5 huyện. 
Quận Nhật Nam: có 5 huyện 
Sự phân vùng lãnh thổ , (Cương vực, địa giới hành chính) 
Hành chính nước ta dưới thời Đông Hán 
Năm 103, nhà Hán đổi bộ Giao Chỉ thành Giao Châu mục đích nhằm sát nhập Giao Chỉ vào nội thuộc Trung Quốc bao gồm cả vùng 9 quận rộng lớn từ Trung bộ Việt Nam ngày nay sang đến vùng Nam Lưỡng quảng Trung Quốc ngày nay. 
GIAO CHỈ 
GIAO CHÂU 
(bao gồm 9 quận) 
Thời 
Nhà HÁN 
(Tây Hán) 
Thời 
Nhà HÁN 
(Đông Hán) 
Năm 103 
Nhà Hán đẩy mạnh chính sách di dân , đưa người Hán sang sống xen kẽ với dân Việt, bắt người Việt theo luật pháp của người Hán và xử sự theo phong tục người Hán. Chúng mở lớp học chữ Hán, truyền bá tư tưởng “Thần phục Thiên Tử”, “Quy phục Thiên triều”. 
Các chính sách Kinh tế dưới thời Đông Hán 
Về chính sách kinh tế: Nhà Hán tiếp tục bóc lột bằng tô thuế và cống nộp sừng tê, ngà voi, trầm hương, ngọc trai, đồi mồi, san hô và các loại sản phẩm quý giá khác 
Hành chính nước ta ở thời kỳ từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI 
Năm 246 , thời thuộc Ngô, lãnh thổ Giao Châu gồm 9 quận trước đây bị thu hẹp lại còn phần đất thuộc 4 quận là quận Giao chỉ, quận Cửu Chân, quận Nhật Nam và quận Hợp Phố . Phần đất thuộc 5 quận còn lại của giao châu được gọi là Quảng Châu. 
Từ thế kỷ III 
Đến thế kỷ VI 
Thời nhà Ngô 
Thời nhà Tống 
Thời nhà Tề 
Thời nhà Lương 
Hành chính nước ta ở thời kỳ từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI 
CN 
Năm 271, nhà Ngô cắt đất lập ra một quận mới là quận Cửu Đức 
(thuộc Đức Thọ - Hà Tĩnh ngày nay). 
Thời kỳ Nam-Bắc triều, năm 471 nhà Tống đặt thêm hai quận Nghĩa Xương và Tống Bình (thuộc khu vực Hà Nội ngày nay). Thời thuộc Tống, nhà Tống chia Giao Châu ra làm 8 quận: Giao Chỉ, Vũ Bình, Tân Xương, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Nghĩa Xương, Tống Bình. Trụ sở của Giao Châu đặt tại Long Biên . 
Đầu năm 485, nhà Tề thay thế nhà Tống. nhà Tề cất quân sang chiếm lại Giao Châu. Sang thế kỷ thứ VI, nhà Lương thay nhà Tề thống trị Giao Châu. Nhà Lương lại tiến hành cải cách hành chính, sắp xếp lại các đơn vị hành chính, chia nhỏ các Châu và nâng cấp một số đơn vị Quận lên thành cấp Châu. 
Nâng cấp 
một số QUẬN 
CHÂU 
Thời 
Nhà Lương 
Tổ chức hành chính thời nhà LƯƠNG ở nước ta 
Triều đình 
nhà Lương 
CHÂU 
CHÂU 
CHÂU 
Kẻ 
làng Việt cổ 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
Năm 523, nhà Lương chia đất Giao Châu (Bắc Bộ ngày nay) lập thành Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay) và hai CHÂU mới là Lợi Châu và Minh Châu, đổi tên quận Cửu Đức (vùng Hà Tĩnh) nâng cấp lên thành Châu Đức. 
Năm 553, nhà Lương cắt một phần đất của quận Giao Châu ở vùng ven biển lập ra Châu Hoàng (Quảng Ninh ngày nay), 
Như vậy về hành chính thời kỳ này nước ta gồm 6 châu : Giao Châu (Bắc Bộ ngày nay), Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), Hoàng Châu (ven biển Bắc Bộ ngày nay), Lợi Châu, Minh Châu (vùng Nghệ An ngày nay), Đức Châu (vùng Hà Tĩnh ngày nay). 
Từ năm 544 
Đến năm 548 
Lý Nam Đế (544-548) 
Niên hiệu là Thiên Đức 
Quốc hiệu là Vạn Xuân 
Đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). 
Chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân (nhà Tiền Lý 544-602) 
CN 
Chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân (nhà Tiền Lý 544-602) 
Tháng 2 năm Gíap Tý (544) khởi nghĩa thăng lợi, Lý Bí chính thức lên ngôi, tự xưng là Hoàng đế , Lý Nam đế – Nam Việt đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức , đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với mong ước nền xã tắc truyền đến muôn đời. Đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). 
Từ năm 544 
Đến năm 602 
Lý Nam Đế (544-548) 
Triệu Việt Vương (549-571) 
Hậu Lý Nam Đế (571-602) 
Chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân (nhà Tiền Lý 544-602) 
CN 
Triệu Việt Vương (549-571) 
Hậu Lý Nam Đế (571-602): Lý Phật Tử lên ngôi xưng là Hậu Lý Nam Đế. Đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc – Việt Trì). 
Năm 602 Lý Phật Tử đầu hàng Nhà Tùy. 
Từ năm 603 
Đến năm 939 
Nhà Tùy (589-617) 
Nhà Đường (618-907) 
Đời Ngũ Qúy (907-939) 
Hành chính nước ta dưới thời đô hộ Tùy - Đường (603-939) 
CN 
Hành chính nước ta dưới thời đô hộ Tùy - Đường 
Tùy Dưỡng Đế (670) đã thay đổi đơn vị hành chính bỏ cấp Châu của nhà Lương và đặt lại chế độ Quận , Huyện. Nước ta thời nhà Tùy thuộc Giao Châu có các quận huyện sau: 
Bỏ cấp Châu 
Đặt lại Quận, 
Huyện 
Thời 
Nhà Tùy 
Tổ chức hành chính thời nhà TÙY ở nước ta 
Triều đình 
nhà TÙY 
Quận 
Nhật Nam 
Quận 
Giao Chỉ 
Quận 
Cửu Chân 
Kẻ 
làng Việt cổ 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Kẻ 
làng Việt cổ 
Nước ta thời nhà Tùy thuộc Giao Châu có các quận huyện sau: 
Quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) có 9 huyện 
Quận Cửu Chân (Thanh Hóa) có 7 huyện. 
Quận Nhật Nam ( Nghệ-Tĩnh) có 8 huyện. 
Quận Tỉ Cảnh (đất Ba Châu của Lâm ấp) có 4 huyện 
Quận Lâm Ấp (đất Ba Châu của Lâm Ấp) có 4 huyện. 
Triều đình 
Nhà Tùy 
Quận 
Thứ Sử 
Quận 
Thứ Sử 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
HUYỆN 
(lạc tướng) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Kẻ - làng 
Việt cổ 
(già làng, 
Già bản) 
Như vậy nước ta bấy giờ về đơn vị hành chính có 5 quận và 32 huyện. Về danh nghĩa, quận trực thuộc trực tiếp triều đình nhà Tùy ở Trung Quốc. 
Năm Kỹ Mão (671) Đường Cao Tông bãi bỏ các quận do nhà Tùy đặt ra, khôi phục lại hệ thống các châu như thời Nam – Bắc Triều. Vùng lãnh thổ thuộc Châu Giao được chia làm 12 châu, 59 huyện, dưới huyện là hương và xã. Đại hương có 160 đến 500 hộ, tiểu hương có 40 đến 60 hộ, tiểu xã có 10 đến 30 hộ. 
Bỏ cấp Quận 
Đặt lại Châu 
Thời 
Nhà Đường 
Triều đình 
Nhà Đường 
Châu 
Thứ Sử 
Châu 
Thứ Sử 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Hương 
Hương trưởng 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
HUYỆN 
(Huyện lệnh) 
Hương 
Hương trưởng 
Hương 
Hương trưởng 
Xã 
Xã trưởng 
Xã 
Xã trưởng 
Xã 
Xã trưởng 
Giao Châu 
đô hộ Phủ 
An Nam 
đô hộ phủ 
Thời 
Nhà Đường 
Cuối thế kỷ IX nhà Đường mới đặt 
Tiết độ sứ ở An Nam 
Năm 769 , nhà Đường đổi Giao Châu đô hộ Phủ thành An Nam đô hộ phủ, nước ta có tên An Nam từ đó. 
An Nam vẫn gồm 12 châu và 59 huyện, dưới huyện là hương, xã. 
Giao Châu. 
Phong Châu 
Trường Châu 
Ái Châu 
Diễn Châu 
Hoan Châu 
Phúc Lộc Châu 
Trang Châu 
Chi Châu. 
Võ Nga Châu 
Võ An Châu 
Lục Châu 
Đối với chính sách quản lý hành chính miền núi , nhà Đường đặt các châu “Ki Mi” (theo sự ràng buộc lỏng lẻo). 
Dưới cấp huyện, nhà Đường đặt ra hai cấp hành chính là hương và xã. Hương là cấp hành chính trung gian giữa huyện và xã. Đứng đầu Hương có hương trưởng, đầu xã có xã trưởng. 
Các chính sách cai trị của nhà Đường 
Các cuộc khởi nghĩa dành chính quyền tiêu biểu chống lại sự đô hộ của nhà Đường, xây dựng nhà nước tự chủ. (Đọc thêm) 
Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan 
Cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương. 
CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA PHƯƠNG BẮC ÁP DỤNG Ở NƯỚC TA 
Chính sách về chính trị. 
Chính sách kinh tế 
Chính sách văn hóa, tư tưởng 
Chính sách về chính trị 
Các triều đại phong kiến Trung Hoa lúc đầu còn duy trì các quan hệ cổ truyền của cơ cấu Âu Lạc . 
CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA 
PHƯƠNG BẮC 
Chính sách về chính trị 
Thiết chế hành chính thời Âu Lạc mà phong kiến phương Bắc cho rằng “lấy luật cũ (của người Việt) mà dùng” cũng bị thay thế và đi đến xóa bỏ bằng cách thay các Lạc Hầu, Lạc Tướng thế tập cai quản các địa phương bằng các quan lại bổ nhiệm từ Trung Hoa sang cai trị đến cấp huyện. 
Chính sách về chính trị 
Các “Kẻ” là đơn vị hành chính cơ sở truyền thống bị thay thế bằng các đơn vị hành chính cơ sở mới theo thiết chế phương Bắc “hương” và “xã”. 
Chính sách về chính trị 
Thực hiện chính sách 
“Dĩ Di Công Di” 
CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA 
PHƯƠNG BẮC 
Chính sách về chính trị 
Chính quyền đô hộ còn đẩy mạnh chính sách di dân , đưa người Hoa sang sống xen kẽ với cư dân lạc Việt để thực hiện việc kiểm soát và đồng hóa dân ta. 
Chính sách “sát phu, hiếp phụ” để đồng hóa giống nòi. 
Chính sách kinh tế 
Từng lớp quý tộc, địa chủ dựa vào thế lực chính quyền đô hộ để chiếm đoạt ruộng đất, lập điền trang, thái ấp, bóc lột nhân dân ta 
Các chính sách Kinh tế CỦA PHƯƠNG BẮC 
Chính sách kinh tế 
Áp đặt chế độ thuế để bóc lột nhân dân ta. Các chính quyền đô hộ đặt ra các loại thuế như: Tô (thuế ruộng đất), Dung (thuế lao dịch), điệu (Thuế thủ công, thuế này đánh theo từng hộ, thường quy ra vải, lụa). Ngoài ra còn có các loại thuế khác gọi là thuế “ngoại xuất”. 
Chính sách kinh tế 
Cống nạp cũng là một hình thức bóc lột kinh tế của chính quyền Đô hộ. 
Các chính sách Kinh tế CỦA PHƯƠNG BẮC 
Chính sách văn hóa, tư tưởng 
Chính quyền đô hộ ra sức truyền bá tư tưởng, tôn giáo lớn của Trung Quốc, Ấn độ như: đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật vào nước ta. 
Nho giáo (Khổng Tử, Mạnh Tử) 
Phật giáo (Tất Đạt Đà) 
Đạo Lão (Lão Tử) 
Đạo Giáo (Trương Đạo Lăng) 
Nho giáo 
Nho giáo 
Câu 5 : Anh (chị) hãy trình bày những nét khái quát về chính sách cai trị của đô hộ Phong kiến áp đặt ở nước ta trong thời Bắc thuộc? 
[GT,45] 
Câu 3 : Anh (chị) hãy trình bày những đặc trưng cơ bản về hành chính nhà nước của chính quyền tự chủ nhà nước Vạn Xuân thời Tiền Lý (544 – 602)? 
[GT,37] 
Câu 4 : Anh (chị) hãy trình bày những nét chủ yếu của hành chính ở nước ta dưới thời đô hộ Tuỳ - Đường? 
[GT,39] 
Hết chương II - Phần thứ nhất 
Bài tập: Suy nghĩ về các từ: 
Hồng Bàng, Lạc Hồng, Bách Việt, Lạc Việt, Hùng Vương, Nam Việt, An Nam, Giao Chỉ, Kinh Dương Vương, Thần Nông 

File đính kèm:

  • pptbai_giang_lich_su_hanh_chinh_nha_nuoc_viet_nam_chuong_2_hanh.ppt