Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin I

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA

MÁC – LÊNIN

I- KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và ba bộ phận cấu thành

Chủ nghĩa Mác – Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người.

 Chủ nghĩa Mác – Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn mang nhiều giá trị khoa học và thực tiễn, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: Triết học Mác- lênin, Kinh tế chính trị học Mác- lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.

2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin

 Điều kiện kinh tế xã hội

 Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII.

Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra ở khắp nơi như: cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyong (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 của thế kỷ 19; cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1832 Đó là bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.

Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là đáp ứng được yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác

 

doc 52 trang Bích Ngọc 03/01/2024 4520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin I", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin I

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin I
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SPKT HƯNG YÊN
BỘ MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
	CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN	
TẬP BÀI GIẢNG MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN I
HƯNG YÊN 2010
Mục Lục
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN
I- KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và ba bộ phận cấu thành
Chủ nghĩa Mác – Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người.
 Chủ nghĩa Mác – Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn mang nhiều giá trị khoa học và thực tiễn, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: Triết học Mác- lênin, Kinh tế chính trị học Mác- lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin
 Điều kiện kinh tế xã hội
	Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra ở khắp nơi như: cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyong (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 của thế kỷ 19; cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1832Đó là bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là đáp ứng được yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác
Tiền đề lý luận.
Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận của triết học Mác. Trong đó, triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoiơbăc là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Trong những năm đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có những phát minh mới làm cho tư duy siêu hình không còn thích hợp nữa. Ba phát minh có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự hình thành chủ nghĩa Mác là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết tế bào, học thuyết của Đác Uyn về sự tiến hoá của các giống loài. Những phát minh đó vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
 “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN”
1. Đối tượng và mục đích của học tập, nghiên cứu
Đối tượng học tập, nghiên cứu môn học “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” là những quan điểm cơ bản, nền tảng và mang tính chân lý bền vững của chủ nghĩa Mác- Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó
	Mục đích của việc học tập, nghiên cứu môn học là nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác- Lênin; hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng; trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng , xây dựng niềm tin và lý tưởng cách mạng; vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội 
2. Một số yêu cầu cơ bản về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu
Học tập, nghiên cứu môn học cần thực hiện yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; chống xu hướng kinh viện, giáo điều.
Thứ hai, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa dạng và nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung.
Thứ ba, học tập, nghiên cứu phải gắn những luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại để thấy sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
Thứ tư, học tập, nghiên cứu đồng thời cũng phải là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình trong cuộc sống cá nhân cũng như trong đời sống cộng đồng xã hội.
Thứ năm, học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin đồng thời cũng phải là quá trình tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có của nó; mặt khác, việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng cần phải đặt nó trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại bởi nó là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của lịch sử đó. 
PHẦN THỨ NHẤT
THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Thế giới quan và phương pháp luận triết học là bộ phận lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin; là sự kế thừa và phát triển những thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong lịch sử tư tưởng. 
 Nắm vững những nội dung cơ bản của thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin chẳng những là điều kiện tiên quyết để nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mà còn là để vận dụng nó một cách sáng tạo trong hoạt động nhận thức khoa học, giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn đất nước và thời đại.
Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
	Triết học là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
 Theo Ăngghen : “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
	- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? cái nào quyết định cái nào?
 Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
 Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân định các trường phái triết học: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận (thuyết có thể biết) và bất khả tri (thuyết không thể biết). Ngoài ra, còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận (chủ nghĩa hoài nghi). 
Chủ nghĩa duy vật cho rằng: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất.
	Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
	Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
	Chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật.
	Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật đã hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là:
 Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên cả thế giới.
	Chủ nghĩa duy vật siêu hinh là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, tiêu biểu cho lịch sử triết học Tây Âu, thế kỷ XVII – XVIII. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức về thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin phát triển. CNDVBC là sự thống nhất hữu cơ giữa CNDV và PBC, CNDV là CNDVBC và PBC là PBCDV.
II- QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
 *Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác. 
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: Đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của nó như nước, lửa, không khí... Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ xíp và Đêmôcrít.
- Thế kỷ XVII - XVIII: Phạm trù vật chất đã có bước phát triển mới, chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Niềm tin vào các chân lý trong cơ học của Niutơn đã khiến các nhà khoa học đồng nhất vật chất với khối lượng. Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục khẳng định những nội dung trong nguyên tử luận của Đêmôcrít.
*Định nghĩa của Lênin về vật chất:
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những phát minh của Rơnghen, Becơren,Tômxon đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. CNDT lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra thế giới. 
 	Kế thừa những tư tưởng của Mác và Ăngghen, tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Lênin đưa ra định nghĩa:
	"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
- Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất là một phạm trù triết học: là vật chất được nhận thức dưới góc độ triết học chứ không phải của các khoa học khác. Hơn nữa đây là nhận thức dưới hình thức phạm trù nghĩa là chỉ ra cái đặc trưng, những thuộc tính căn bản phổ biến của vật chất.
	+ Vật chất là cái thực tại khách quan tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
	+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
	 Ý nghĩa của định nghĩa
	- Khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
	- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật triệt để.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
*Vận động là phương tồn tại của vật chất
Vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph.Ăngghen viết “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
	Vận động “là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; vận động là tự thân vận động của vật chất.
	Sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động, không có vật chất không vận động, không có vận động ngoài vật chất. 
	Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản:
	Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian.
	Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện, ...
	Vận động hoá học sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải
	Vận động sinh học sự biến đổi của các cơ thể sống, biến đổi cấu trúc gien
	Vận động xã hội sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa..
Chú ý:
	Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất.
	Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả hình thức vận động thấp hơn.
	Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
	Đứng im tương đối là hình thức vận động trong thế cân bằng. 
	Đứng im tương đối có đặc điểm sau:
	- Hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, chứ không phải trong mọi quan hệ cùng lúc.
	- Hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra đối với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thái vận động trong cùng một lúc.
	- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
* Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
	Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có quảng tính nhất định và tồn tại trong mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian.
	Sự tồn tại của sự vật còn được biểu hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v. v. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
	Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên chúng có tính chất chung như tính chất của vật chất. Không gian luôn có ba chiều, thời gian chỉ có một chiều.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
 	- CNDVBC khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
+Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
+Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và  ... hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
 Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của hình thái kinh tế- xã hội.
 Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội, các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
	Kiến trúc thượng tầng được hình thành, phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ bảo vệ, duy trì phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
2. Quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội
Tính chất lịch sử – tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế – xã hội được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau:
Một là, sự vận động phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan, đó là quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế- xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học,mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,.. của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đó.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, tức là quá trình thay thế nhau của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử nhân loại, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử- tự nhiên, thì tiến trình phát triển lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng còn có sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, truyền thống văn hoá,Chính sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính đa dạng phong phú trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Có những nước phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế- xã hội: nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai là chủ nghĩa cộng sản. Có những nước trong tiến trình phát triển đã “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế- xã hội 
	Lý luận hình thái kinh tế- xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Thứ nhất, theo lý luận này, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát riển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung.
Thứ hai, theo lý luận này, các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
Thứ ba, theo lý luận này, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
a. Khái niệm giai cấp
V.I. Lênin trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” đã định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Thực chất của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là sự phân hoá những con người trong một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội.
Tầng lớp xã hội chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: lao động giản đơn, tầng lớp lao động phức tạp, tầng lớp lao động chuyên gia,
b. Nguồn gốc giai cấp
Theo C.Mác “sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. 
	Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
	Nguồn gốc sâu xa của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất. 
c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
 Theo V.I. Lênin đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
 Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn về mặt lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị sinh ra một cơ quan bạo lực có tổ chức- đó là Nhà nước. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất mới ra đời tạo ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị- xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn.
 Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
	Khái niệm cải cách xã hội dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi hình thái kinh tế- xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế- xã hội đó. 
	Khái niệm đảo chính dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và chủ trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình thức bạo lực hoặc phi bạo lực
	 Nguyên nhân sâu xa Xuất phát từ mâu thuẫn bên trong của nền sản xuất vật chất xã hội, mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đó đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được- đó là nguyên nhân khách quan.
	Nguyên nhân chủ quan, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ.
b. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.
	Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. Thông qua cách mạng xã hội diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế- xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Trong thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi thường
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất của con người
a. Khái niệm con người.
	Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
	- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”.
	- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ hai góc độ sau:
Thứ nhất, nhờ có lao động mà con người vượt qua loài động vật để tiến hoá và phát triển thành người.
Thức hai, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội.
b. Bản chất con người
Trong luận cương về Phoiơbăc, Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Luận điểm này trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của con người. Bản tính xã hội của con người chính là phương diện bản chất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của tự nhiên. 
	Con người là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị- xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi bản chất của con người. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó.
	Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
 Ý nghĩa phương pháp luận.
	Một là, để giải thích một cách khoa học những vấn đề về con người thì không đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế- xã hội của nó.
	Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo của mỗi con người.
	Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó là phải hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế- xã hội.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân chỉ phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội.
	Khái niệm quần chúng được xác định bởi các nội dung sau đây:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột đối kháng với cộng đồng nhân dân. 
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hay gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó lịch sử trước hết và cơ bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Biểu hiện:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân.
	Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
	Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học.
	Khái niệm lãnh tụ dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quân chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mặt thiết với quần chúng nhân dân. Lãnh tụ là người phải có các phẩm chất sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
	Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau: 
	Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội. 
	Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy. 
	Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ của mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với thời đại nhất định.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_maclenin_i.doc