Sự hài lòng về cuộc sống một tiếp cận phi kinh tế về phát triển

Trên thế giới, nghiên cứu sự hài lòng về

cuộc sống đã có lịch sử phát triển hơn nửa

thế kỷ, khoảng thời gian cũng tương tự đối

với nghiên cứu về hạnh phúc. Có nhiều chủ

đề nghiên cứu sự hài lòng về cuộc sống,

sau đây là một số chủ đề được quan tâm

nghiên cứu nhiều hơn các chủ đề khác:

Sự hài lòng về nghề nghiệp, việc làm:

Tầm quan trọng của việc làm được phản

ánh trong một khối lượng tư liệu to lớn

trong nghiên cứu về hài lòng cuộc sống,

mà trọng tâm là “chất lượng của đời sống

lao động”, những tài liệu nghiên cứu về

khả năng của con người làm thế nào “cân

bằng” giữa công việc và đời sống gia

đình, cùng những phân tích tác động của

sức ép công việc hoặc thất nghiệp lên sức

khoẻ tâm thần và sự hài lòng, hạnh phúc.

Có nhiều lý do thuyết phục cho vấn đề tại

sao các nhà kinh tế lại quan tâm đến sự

hài lòng về nghề nghiệp, trong đó có hai

lý do quan trọng sau: Thứ nhất, sự hài

lòng nghề nghiệp được coi là một yếu tố

dự báo mạnh mẽ hành vi và hiệu suất làm

việc của người lao động. Ví dụ như, mức

độ hài lòng nghề nghiệp được sử dụng để

dự đoán sự sao nhãng, bỏ việc và năng

suất lao động. Thứ hai, sự hài lòng nghề

nghiệp là một yếu tố dự báo quan trọng về

hạnh phúc nói chung

pdf 9 trang dienloan 5320
Bạn đang xem tài liệu "Sự hài lòng về cuộc sống một tiếp cận phi kinh tế về phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự hài lòng về cuộc sống một tiếp cận phi kinh tế về phát triển

Sự hài lòng về cuộc sống một tiếp cận phi kinh tế về phát triển
SỰ HÀI LÒNG VỀ CUỘC SỐNG 
MỘT TIẾP CẬN PHI KINH TẾ VỀ PHÁT TRIỂN 
HOÀNG BÁ THỊNH* 
1. Nghiên cứu trên thế giới* 
Trên thế giới, nghiên cứu sự hài lòng về 
cuộc sống đã có lịch sử phát triển hơn nửa 
thế kỷ, khoảng thời gian cũng tương tự đối 
với nghiên cứu về hạnh phúc. Có nhiều chủ 
đề nghiên cứu sự hài lòng về cuộc sống, 
sau đây là một số chủ đề được quan tâm 
nghiên cứu nhiều hơn các chủ đề khác: 
Sự hài lòng về nghề nghiệp, việc làm: 
Tầm quan trọng của việc làm được phản 
ánh trong một khối lượng tư liệu to lớn 
trong nghiên cứu về hài lòng cuộc sống, 
mà trọng tâm là “chất lượng của đời sống 
lao động”, những tài liệu nghiên cứu về 
khả năng của con người làm thế nào “cân 
bằng” giữa công việc và đời sống gia 
đình, cùng những phân tích tác động của 
sức ép công việc hoặc thất nghiệp lên sức 
khoẻ tâm thần và sự hài lòng, hạnh phúc. 
Có nhiều lý do thuyết phục cho vấn đề tại 
sao các nhà kinh tế lại quan tâm đến sự 
hài lòng về nghề nghiệp, trong đó có hai 
lý do quan trọng sau: Thứ nhất, sự hài 
lòng nghề nghiệp được coi là một yếu tố 
dự báo mạnh mẽ hành vi và hiệu suất làm 
việc của người lao động. Ví dụ như, mức 
độ hài lòng nghề nghiệp được sử dụng để 
dự đoán sự sao nhãng, bỏ việc và năng 
suất lao động. Thứ hai, sự hài lòng nghề 
nghiệp là một yếu tố dự báo quan trọng về 
hạnh phúc nói chung. 
* PGS.TS. Trường Đại học Khoa học xã hội và 
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Nghiên cứu sự hài lòng về hôn nhân, gia 
đình: Nhiều nghiên cứu đã xem xét tác 
động của các quan hệ của chủ thể hạnh 
phúc và chỉ ra, ảnh hưởng tích cực của hôn 
nhân đối với sự hài lòng về cuộc sống. Ly 
hôn, ly thân hoặc goá làm giảm mức độ hài 
lòng một cách đáng kể. Những phát hiện 
khác nhấn mạnh tầm quan trọng tác động 
của các quan hệ xã hội và mạng lưới xã hội 
đối với chủ đề hài lòng và hạnh phúc của 
cá nhân. Nghiên cứu về sự hài lòng cuộc 
sống trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình 
cũng có một số cách tiếp cận khác nhau. 
Hướng nghiên cứu thứ nhất: tìm hiểu sự 
tác động của các mô hình gia đình khác 
nhau đến sự hài lòng về đời sống gia đình. 
Hướng nghiên cứu này đi vào xem xét một 
cách hệ thống các công trình nghiên cứu có 
liên quan, từ đó khái quát các kiến thức 
hiện có về chủ đề này. Trên cơ sở đó, đề 
xuất các hướng nghiên cứu mới về hôn 
nhân, gia đình (trường hợp của Sri Lanka), 
đặc biệt là hướng tiếp cận tìm hiểu ảnh 
hưởng của hôn nhân đến sự hài lòng cuộc 
sống gia đình. Từ tổng quan nghiên cứu, 
họ đưa ra mô hình về các hình thức gia 
đình khác nhau tác động đến sự hài lòng về 
cuộc sống gia đình như mô hình hôn nhân 
dựa trên tình yêu, hôn nhân do mai mối, 
hôn nhân truyền thống.v.v 
Hướng tiếp cận thứ hai, được nhiều nhà 
nghiên cứu theo đuổi là đi tìm hiểu sự phân 
công lao động gia đình, vai trò giới trong 
gia đình tác động đến sự hài lòng của các 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 
82
thành viên. Như nghiên cứu của Renata 
Forste (năm 2008), đây là nghiên cứu tiến 
hành phân tích số liệu điều tra xã hội năm 
2002 tại 34 quốc gia trên thế giới. Nghiên 
cứu này tìm hiểu mối quan hệ giữa sự 
phân công lao động theo giới trong gia 
đình và các đặc điểm của cá nhân, gia 
đình và sự hài lòng về đời sống gia đình. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc tham 
gia vào chăm sóc con cái và làm việc nhà 
có ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của 
các thành viên trong gia đình. Những gia 
đình được xây dựng và phân công vai trò 
giữa vợ và chồng theo mô hình truyền 
thống (người chồng chịu trách nhiệm 
kiếm tiền, người vợ phụ trách con cái và 
việc nhà) có xu hướng hài lòng với đời 
sống gia đình cao hơn so với những gia 
đình xây dựng theo mô hình hiện đại. Sự 
hài lòng với gia đình cũng có xu hướng 
ảnh hưởng bởi mức độ phát triển của các 
quốc gia. 
Hướng nghiên cứu thứ ba, là những 
nghiên cứu hướng tới tìm hiểu những yếu 
tố tác động đến sự hài lòng về hôn nhân, 
gia đình. Nghiên cứu của Eiji Yamamura 
(năm 2011) tìm hiểu ảnh hưởng về tuổi 
của con đến sự khác biệt về sự hài lòng về 
hôn nhân giữa phụ nữ và nam giới ở các 
nước Đông Nam Á. Nghiên cứu sử dụng 
số liệu điều tra năm 2006 tại Trung Quốc, 
Hàn Quốc, và Nhật Bản để tìm hiểu ảnh 
hưởng bởi tuổi của con đến mối quan hệ 
và sự hài lòng hôn nhân của nam và nữ ở 
ba nước này. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, sự hài lòng về hôn nhân của nam 
giới không bị ảnh hưởng nhiều bởi tuổi 
của con, trong khi đó sự sự hài lòng về 
hôn nhân của nữ giới lại có xu hướng chịu 
sự tác động về tuổi của con. 
Nghiên cứu sự hài lòng về sức khoẻ: Có 
một thực tế là hiện nay có khá nhiều các 
nghiên cứu về sự hài lòng trong cuộc sống 
nói chung nhưng lại rất ít các nghiên cứu đề 
cập đến sự hài lòng đối với hai khía cạnh 
của cuộc sống là sức khỏe và đời sống tinh 
thần. Các nghiên cứu thường cố gắng 
hướng tới việc xây dựng hay vận dụng các 
mô hình về sự hài lòng trong cuộc sống, 
trong đó cố gắng tìm hiểu các biến số tác 
động đến sự thay đổi về mức độ hài lòng 
trong cuộc sống. Một trong các mô hình 
được sử dụng khá phổ biến là mô hình của 
Campbell (năm 1976). Ông đã đưa ra mô 
hình đề xuất tìm hiểu sự biến đổi của mức 
độ hài lòng trong cuộc sống dưới tác động 
của hai loại biến số. Nhóm thứ nhất là, 
những biến số nhân khẩu học như; giới tính, 
tuổi, vị trí kinh tế xã hội, tình trạng hôn 
nhân, số năm sống tại địa bàn. Nhóm thứ 
hai là, những biến số thuộc về sự hài lòng 
về những khía cạnh nổi bật của cuộc sống 
như: công việc, sức khỏe, cuộc sống gia 
đình, con cái, mối quan hệ bạn bè Nhóm 
biến số thứ hai này, một mặt chịu tác động 
của nhóm biến số thứ nhất, đồng thời tác 
động đến biến phụ thuộc là sự hài lòng về 
cuộc sống nói chung. 
Các nghiên cứu về chủ đề khác: qua bài 
viết Tôn giáo, mạng lưới xã hội, và sự hài 
lòng với cuộc sống đã chỉ ra rằng, những 
người mộ đạo có sự hài lòng hơn với cuộc 
sống của họ so với những người không mộ 
đạo, bởi vì họ thường tham gia các lễ nghi 
tôn giáo và tạo dựng nên các mạng lưới xã 
hội thông qua giáo đoàn của họ. Các tác 
giả cũng cho biết mạng lưới bạn bạn bè mà 
những người mộ đạo xây dựng nên từ các 
giáo đoàn của họ và bản sắc tôn giáo là 
những nhân tố trung gian cơ bản trong mối 
Sự hài lòng về cuộc sống 
83
quan hệ giữa tôn giáo và sự hài lòng đối 
với cuộc sống. 
Grant Marshall và cộng sự (năm 1996) 
nghiên cứu về những điều kiện khách 
quan và sự hài lòng đối với cuộc sống 
qua số liệu khảo sát đối với những người 
vô gia cư ở vùng Los Angeles đã chỉ ra 
rằng, các chỉ số mang tính chủ quan về 
chất lượng cuộc sống, hay điều kiện cuộc 
sống mang tính chủ quan (chẳng hạn thu 
nhập, hay vị thế) có mối liên hệ với từng 
khía cạnh cụ thể của sự hài lòng với cuộc 
sống, chứ không liên hệ với sự hài lòng 
với cuộc sống một cách tổng thể. Chẳng 
hạn, sự thoát ra khỏi cảnh vô gia cư có 
mối liên hệ đối với sự hài lòng với nhà ở, 
chứ không liên hệ với sự hài lòng đối với 
cuộc sống nói chung. Tương tự như vậy, 
thu nhập có mối liên hệ thuận chiều với 
sự hài lòng với điều kiện tài chính, chứ 
không có liên hệ với sự hài lòng đối với 
cuộc sống nói chung. 
2. Nghiên cứu ở Việt Nam 
Nghiên cứu sự hài lòng về dịch vụ công: 
Trong những nghiên cứu thuộc lĩnh vực 
này, cần kể đến nghiên cứu của Bộ Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn, Cơ quan 
Hợp tác và Phát triển Thuỵ Sĩ; và tổ chức 
HELVETAS Việt Nam về “Sự hài lòng 
của người dân đối với cung cấp dịch vụ 
công trong ngành nông nghiệp và phát 
triển nông thôn, lập kế hoạch kinh tế - xã 
hội và quản lý tài chính cấp xã 2007 và 
2009”, được thực hiện năm 2010 tại hai 
tỉnh Cao Bằng và Hoà Bình. 
Khoảng 10 năm trở lại đây, Thẻ báo cáo 
công dân (Citizen Report Card - CRC) là 
hình thức khảo sát có sự tham gia nhằm thu 
thập ý kiến phản hồi từ người sử 
dụng/người thụ hưởng về các dịch vụ công 
hay các chương trình hỗ trợ cũng được một 
số địa phương và một số ngành, tổ chức xã 
hội thực hiện. 
Ở Việt Nam, CRC được tiến hành đầu 
tiên vào năm 2003 - 2004 do Ngân hàng 
Thế giới và UNDP hỗ trợ về tài chính và 
kỹ thuật với tên gọi khảo sát Thẻ báo cáo 
công dân (CRC) thực hiện ở 4 tỉnh, thành 
phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, 
Hải Phòng và Nam Định. Thành phố Hồ 
Chí Minh sau đó đã tiếp tục áp dụng khảo 
sát Thẻ báo cáo với tên gọi khảo sát mức 
độ hài lòng của người dân đối với dịch vụ 
công vào năm 2006, 2007, 2008. Hội đồng 
Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết 
định thực hiện định kỳ Khảo sát sự hài 
lòng của người dân đối với dịch vụ công 2 
năm/lần. Kết quả khảo sát sự hài lòng của 
người dân đối với các dịch vụ công ở thành 
phố Hồ Chí Minh đã giúp ích cho chính 
quyền thành phố và các sở, ngành trong 
việc cải cách hành chính và hoàn thiện chất 
lượng dịch vụ cung cấp cho người dân. 
 Năm 2008, công cụ khảo sát sự hài lòng 
của người dân (CRC) đã được đưa vào áp 
dụng trong Chương trình 135 giai đoạn hai 
(CT135-II) để thu thập ý kiến của người 
dân có tham gia vào và hưởng lợi từ 
CT135-II nhằm đánh giá mức độ hài lòng 
của họ đối với các hợp phần: xây dựng kết 
cấu hạ tầng, phát triển sản xuất và cải thiện 
đời sống, hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ pháp lý. 
Tuy mới chỉ thử nghiệm tiến hành trong 
phạm vi nhỏ ở 16 xã thuộc 4 tỉnh (Lào Cai, 
Lai Châu, Bình Phước và Sóc Trăng), 
nhưng kết quả của cuộc khảo sát năm 2008 
cũng cho thấy đây là công cụ hữu hiệu để 
đánh giá được tiến độ thực hiện Chương 
trình, tìm ra những điểm yếu, khó khăn và 
vướng mắc từ những ý kiến phản hồi của 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 
84
người dân để đưa các giải pháp kịp thời hỗ 
trợ cho việc thực hiện Chương trình được 
tốt hơn. Ngoài ra, CRC cũng đã được một 
số đơn vị khác ở Việt Nam thực hiện. 
Một lĩnh vực cũng được quan tâm là đo 
lường sự hài lòng của người dân về dịch vụ 
công. Theo đó, các dịch vụ công mà địa 
phương cung cấp cho doanh nghiệp để thu 
hút vốn đầu tư vào tỉnh mình hiệu quả ra 
sao được đánh giá thông qua Chỉ số năng 
lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), trong khi 
hiệu quả đó trong việc phục vụ nhân dân 
được thể hiện qua Chỉ số hiệu quả quản trị 
và hành chính công cấp tỉnh (PAPI). PAPI 
lần đầu tiên được công bố vào ngày 
31/3/2011 tại Hà Nội. Trong số 30 địa 
phương được khảo sát, các tỉnh, thành lớn 
như Đồng Nai, Hải Phòng, Phú Thọ và Thủ 
đô Hà Nội thuộc nhóm được dân đánh giá 
trung bình về hiệu quả hành chính. Thành 
phố Hồ Chí Minh là địa phương có mức độ 
hiệu quả hành chính được người dân đánh 
giá cao và đồng đều nhất. 
Chưa có nghiên cứu cơ bản nào về sự 
hài lòng cuộc sống ở nước ta được công 
bố. Chỉ có một số nghiên cứu nhỏ lẻ ở một 
vài lĩnh vực kinh doanh, y tế. Đáng chú ý 
là nghiên cứu sự hài lòng của người dân về 
dịch vụ hành chính công. 
Năm 2006, Viện Kinh tế Thành phố Hồ 
Chí Minh đã phối hợp với Cục Thống kê 
Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Chỉ đạo 
cải cách hành chính của Thành phố xây 
dựng đề án “Khảo sát chỉ số hài lòng của 
người dân về chất lượng dịch vụ công năm 
2006” và tiến hành đợi khảo sát lấy ý kiến 
các hộ dân, được tiến hành trên 7 loại hình 
dịch vụ: Dịch vụ thu gom rác; Dịch vụ vận 
tải hành khách công cộng; Dịch vụ y tế; 
Dịch vụ cấp giấy chủ quyền nhà đất; Dịch 
vụ cấp phép xây dựng; Dịch vụ công 
chứng; Dịch vụ thu thuế hộ cá thể. 
Nhóm đối tượng mục tiêu tham gia mô 
hình này luôn biến động vì các mục tiêu 
thay đổi theo từng năm. Tuy nhiên, cả năm 
2006 và năm 2008 thì đối tượng tham gia 
và phương pháp tiếp cận lại giống nhau. 
Điều tra tập trung khảo sát mức độ hài 
lòng của người dân đối với một số dịch vụ 
hành chính và đánh giá xem mức độ hài 
lòng thay đổi thế nào theo thời gian. Đối 
với mỗi dịch vụ, kết luận hoàn toàn giống 
nhau là: có ít người hơn không hài lòng so 
với trước đây, nhưng cũng ít người hài 
lòng hơn. 
Đà Nẵng là một trong những thành phố 
rất quan tâm đến nghiên cứu sự hài lòng 
của người dân đối với các dịch vụ hành 
chính công (DVHCC). Nội dung khảo sát 
mức độ hài lòng bao gồm: Khả năng, mức 
độ tiếp cận DVHCC; Khả năng, mức độ sử 
dụng DVHCC; Chi phí (các mức thu phí, 
lệ phí) để thực hiện DVHCC; Cơ chế tiếp 
nhận, phản hồi và giám sát thông tin; 
Khiếu nại, tố cáo; Mức độ hài lòng chung 
về DVHCC; Các kiến nghị để nâng cao 
chất lượng cung ứng DVHCC và CCHC 
của cơ quan, đơn vị. Hình thức khảo sát 
mức độ hài lòng: Phiếu khảo sát trực tiếp; 
Phỏng vấn; Điện thoại; Thư điện tử; Trang 
thông tin điện tử; Các hình thức khác. 
Nghiên cứu trong lĩnh vực y tế, giáo 
dục: Trong hướng tiếp cận nghiên cứu về 
sự hài lòng cuộc sống, hiện nay ở nước ta 
mới có một vài nghiên cứu nhỏ, ở phạm vi 
ngành. Chẳng hạn: Khảo sát về sự hài lòng 
của điều dưỡng về nghề nghiệp tại 14 cơ sở 
y tế ở Thành phố Hồ Chí Minh, bằng 
phương pháp trả lời phỏng vấn của 987 
điều dưỡng trong tháng 8/2005, nhằm đánh 
Sự hài lòng về cuộc sống 
85
giá sự hài lòng nghề nghiệp của người 
điều dưỡng hiện nay. Khảo sát mức độ 
hài lòng của bệnh nhân nội trú tại Bệnh 
viện tai mũi họng Cần Thơ năm 2008, 
nghiên cứu này nhằm xác định mức độ 
hài lòng của bệnh nhân nội trú tại Bệnh 
viện tai mũi họng Cần Thơ về các mặt 
phục vụ, chất lượng khám, điều trị và cơ 
sở vật chất. 
Cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình 
Việt Nam năm 2008 trên quy mô toàn 
quốc với quy mô mẫu rất lớn, do một cơ 
quan Việt Nam thực hiện nhằm thu thập 
dữ liệu về hàng loạt vấn đề liên quan đến 
quản lý nhà nước, trong đó có sự hài lòng 
của người dân đối với các dịch vụ như y tế 
và giáo dục. Nhìn chung, các kết quả 
tương đối tích cực. Một tỷ lệ tương đối 
nhỏ các hộ gia đình cho biết họ không hài 
lòng với các dịch vụ này, song thực tế là 
chỉ có một nửa số người sử dụng dịch vụ 
khẳng định rõ ràng rằng họ hài lòng với 
các dịch vụ này, điều này cho thấy sự cần 
thiết phải tiếp tục cải tiến nâng cao chất 
lượng cung cấp dịch vụ. 
Nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã 
hội: Có thể nói, trong lĩnh vực khoa học 
xã hội và nhân văn ở trong nước còn rất 
hiếm nghiên cứu về sự hài lòng cuộc sống 
với tư cách là một đề tài nghiên cứu khoa 
học. Thi thoảng ở đâu đó, trong những 
nghiên cứu khác nhau, có lồng ghép/kết 
hợp một vài câu hỏi về sự hài lòng liên 
quan đến lĩnh vực mà đề tài đó nghiên 
cứu. Chẳng hạn, trong Dự án nghiên gia 
đình nông thôn Việt Nam năm 2004, do 
Viện Xã hội học (Viện Khoa học xã hội 
Việt Nam phối hợp cùng với Sida, do 
GS.TS. Trịnh Duy Luân chủ trì), trong 
bảng hỏi có một câu hỏi liên quan đến sự 
hài lòng về hôn nhân: “Nhìn chung cho 
đến nay, ông/bà cảm thấy hài lòng về đời 
sống hôn nhân của mình ở mức độ nào?”. 
GS.TS. Bùi Thế Cường trong đề tài: 
“Cơ cấu xã hội, lối sống, và phúc lợi xã 
hội tại Thành phố Hồ Chí Minh”, gồm 
1070 hộ tại 30 phường/xã/thị trấn, tháng 
4/2010 (Đề tài do Sở Khoa học công nghệ 
Thành phố Hồ Chí Minh tài trợ 2009 - 
2010), có đề cập đến mức độ hài lòng của 
người dân đối với công việc đang làm và 
cuộc sống của họ hiện nay. 
Trong Chương trình nghiên cứu khoa 
học công nghệ cấp Nhà nước KX.05.07 về 
Định hướng giá trị con người Việt Nam 
thời kỳ đổi mới và hội nhập (2001-2005), 
do GS.VS.Phạm Minh Hạc làm Chủ 
nhiệm Chương trình, trong bảng hỏi với 
150 câu hỏi, có 1 câu hỏi đề cập đến sự 
hài lòng về cách làm việc của các viên 
chức nhà nước. Một số nghiên cứu trên 
đây về sự hài lòng chỉ giới hạn ở phạm vi 
hẹp của ngành với một nhóm đối tượng cụ 
thể, mà chưa có nghiên cứu đối với các 
nhóm đối tượng khác nhau. 
Năm 2011, nhóm nghiên cứu của 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân 
văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã thực 
hiện đề án Sự hài lòng về cuộc sống, với 
22 chỉ báo đề cập đến sự hài lòng về cuộc 
sống của người dân thông qua các chỉ báo 
về hôn nhân, gia đình, việc làm, thu nhập, 
chi tiêu, điều kiện nhà ở, các mối quan hệ 
xã hội. Kết quả cho thấy, mức độ hài lòng 
về cuộc sống của người Việt Nam khá 
cao, nhất là các chỉ báo về hôn nhân, gia 
đình, con cái. Các chỉ báo có mức độ hài 
lòng thấp nhất là: chi tiêu, thu nhập, kết 
cấu hạ tầng. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 
86
3. Sự cần thiết nghiên cứu sự hài lòng 
về cuộc sống 
3.1. Các nước phát triển rất quan tâm 
đến các chiều cạnh phi kinh tế của sự 
phát triển 
Từ góc độ xã hội và văn hoá, chúng tôi 
quan niệm rằng, rất cần có những nghiên 
cứu về sự hài lòng cuộc sống hoặc nghiên 
cứu về hạnh phúc. Đây là một lĩnh vực mà 
nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã 
thực hiện nhiều năm qua, trường hợp nước 
Pháp là một ví dụ. Tháng 2/2008, Tổng 
thống Pháp mời giáo sư kinh tế Joseph 
Stiglitz thuộc Đại học Colombia, Hoa Kỳ 
đứng đầu ủy ban mang tên “Ủy ban vì mức 
độ đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ xã 
hội”. Ủy ban này bao gồm hơn 20 chuyên 
gia quốc tế, trong đó có đến 5 người đưọc 
giải thưởng Nobel kinh tế (Kenneth Arrow, 
Daniel Kahneman, James Heckman, 
Amartya Sen và giáo sư Joseph Stiglitz) có 
hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất, xem xét 
những giới hạn của chỉ số GDP, trong chức 
năng đo lường hiệu quả kinh tế và tiến bộ 
xã hội. Thứ hai, Ủy ban phải đề nghị một 
số thông tin, những công cụ để bổ sung cho 
GDP, vốn được dùng để đo lường của cải 
mà một quốc gia làm ra. 
Những thông tin mang tính bổ sung đó 
hay những công cụ mới này phải là một 
phương tiện giúp chính phủ có thể “bắt 
mạch” tình hình kinh tế và xã hội trong 
nước một cách toàn diện hơn, trung thực 
hơn, chính xác hơn so với những chỉ số 
thường dùng hiện nay, như GDP hay tỷ lệ 
lạm phát và thất nghiệp. Mục tiêu sau cùng 
là để từ đó Nhà nước có thể hoạch định 
những chính sách kinh tế có hiệu quả nhất. 
Giáo sư Jean Paul Fitoussi, điều phối viên 
của Ủy ban Stiglitz, cho biết rõ về sự cần 
thiết có những công cụ đo lường chính xác 
hơn. “Nếu như một chính phủ quyết định 
đưa ra một chính sách kinh tế để nâng tỷ lệ 
tăng trưởng của GDP, nhưng quyết định đó 
lại tạo cho người dân cảm tưởng là hạnh 
phúc của họ hay chất lượng đời sống hàng 
ngày của họ bị giảm đi, thì đấy thật sự là 
một ''vấn đề''. Do vậy, một chính phủ nên 
cần có hai loại chỉ số, một chỉ số thuần túy 
kinh tế và bên cạnh đó là chỉ số chất lượng 
cuộc sống”. 
Vào đầu thế kỷ XXI, con người đang 
chuyển từ một nền kinh tế chỉ chú trọng 
vào khối lượng sang một mô hình mà ở đó 
những tiến bộ về mặt “số lượng” cần phải 
đi kèm với những tiến bộ về mặt “chất 
lượng”. Từ đó, Báo cáo Stiglitz đề nghị là 
các con số thống kê nên dành một vị trí 
quan trọng hơn cho các chỉ số đo lường 
mức độ hạnh phúc của người dân và điều 
đó không có nghĩa là phải quên đi chỉ số 
GDP. Ngoài ra, chỉ số đo lường về chất 
lượng đó phải chú ý đến cả hai khía cạnh 
“chủ quan” và “khách quan” của vấn đề. 
Theo đánh giá của Ủy ban, càng cho thấy 
rõ là hơn bao giờ hết, các quốc gia trên thế 
giới nên hướng đến một chỉ số kinh tế và 
xã hội khác, thay vì chỉ giới hạn chỉ số 
GDP. Mặt khác nó cũng cho thấy là tầm 
mức quan trọng của báo cáo Stiglitz đã 
vượt hẳn ra ngoài phạm vi nước Pháp. 
3.2. Sự cần thiết và ý nghĩa, tầm quan 
trọng của nghiên cứu sự hài lòng (hoặc 
nghiên cứu hạnh phúc) 
3.2.1. Hài lòng cuộc sống: thước đo sự 
ổn định xã hội 
Số liệu về sự hài lòng cuộc sống của cá 
nhân đem lại lăng kính để nghiên cứu sự 
bất mãn/không hài lòng xã hội và tiềm ẩn 
sự không ổn định về chính trị. Nói cách 
Sự hài lòng về cuộc sống 
87
khác, kết quả nghiên cứu sự hài lòng về 
cuộc sống là cơ sở để đánh giá sự thịnh 
vượng của một xã hội và là cơ sở để dự 
báo về “ổn định xã hội” trong quá trình 
phát triển. Nó cũng cho thấy mức độ hiệu 
quả của việc triển khai các chính sách xã 
hội vào thực tế. 
Trái ngược với sự hài lòng là sự bất 
mãn/không hài lòng xã hội thường được 
xem trong các thuật ngữ với những biểu 
hiện có thể quan sát được, như: sự dân chủ, 
rối loạn; bãi công; tội phạm, tham nhũng. 
Các chiều cạnh này có một vài sự liên quan 
để hiểu được sự không hài lòng của xã hội. 
Ví dụ, nếu người ta có xu hướng nói về 
mức độ cao hài lòng cuộc sống, thì điều 
này đem lại một số bằng chứng rằng sự 
bất ổn xã hội không đáng lo như người ta 
vẫn hình dung. Tương tự, nếu báo cáo cho 
thấy sự không hài lòng - ví dụ sự không hài 
lòng về nghề nghiệp - thì là chỉ báo cho 
thấy cần quan tâm đến lĩnh vực việc làm. 
Thêm nữa, nếu những nhóm xã hội với đặc 
điểm cụ thể (dân tộc, học vấn, nghề 
nghiệp) có mức độ hài lòng thấp, thì 
điều này cũng cung cấp cho chúng ta 
những bằng chứng về họ là nhóm kinh tế - 
xã hội có sự không hài lòng nhiều hơn, và 
có thể nảy sinh những vấn đề xã hội. 
Hài lòng về cuộc sống là một thành tố 
quan trọng trong quan niệm về hạnh phúc 
của con người. Nghiên cứu sự hài lòng 
cuộc sống có thể dự báo được mức độ hạnh 
phúc của cá nhân. Trong khi đó hạnh phúc, 
một giá trị vô hình, một cảm xúc thấm suốt 
tấm lòng và trí óc của con người lại làm 
cho chúng ta càng yêu đời, yêu gia đình, 
yêu bạn bè, yêu nước, yêu nhân loại và 
ngược lại, tình yêu đó làm cho chúng ta 
càng thấy hạnh phúc. Những tấm lòng 
hạnh phúc là bảo vật của xã hội. Trái lại 
việc gây nỗi bất hạnh, bất mãn, bất tín, bất 
tin cậy, buồn chán trong người dân, trong 
cán bộ, trong trí thức, trong thanh niên, là 
việc làm nguy hiểm dẫn đến tình trạng mất 
đoàn kết, chia rẽ trong các tầng lớp và toàn 
bộ xã hội, do đó có thể dẫn đến thất bại của 
xã hội, thậm chí đến thảm hoạ mất nước. 
GS.VS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Tuy 
hạnh phúc phức tạp và trừu tượng như vậy, 
nhưng nó lại là điều có thật, tồn tại trong 
mỗi con người từng giây phút của cuộc 
sống và có tác dụng rất lớn trong việc chỉ 
đạo các hoạt động quản lý của con người. 
Vì vậy, nếu các thành viên xã hội cảm thấy 
hạnh phúc thì xã hội sẽ ổn định cho dù đời 
sống vật chất chưa cao”. 
3.2.2. Hài lòng cuộc sống: chỉ báo đo 
lường phát triển và quản trị nguồn nhân lực. 
Trong khi lĩnh vực phát triển nguồn 
nhân lực đang được xem như là một ngành 
riêng biệt, một trong những khía cạnh quan 
trọng cần phải được nghiên cứu đó là chỉ 
số hài lòng của nhân viên. Nói về tầm quan 
trọng của việc “duy trì số điểm” về sự hài 
lòng của nhân viên, các nhà nghiên cứu đã 
thấy rằng sự hài lòng của nhân viên (ví dụ, 
cảm thấy thoải mái từ trải nghiệm của công 
việc) góp phần tăng kiến thức cho họ, cải 
thiện hiệu suất công việc của họ, tăng 
cường sự sáng tạo và hợp tác. Điều này 
cho thấy rằng những nhân viên hài lòng có 
động lực cao hơn, tinh thần làm việc tốt, 
làm việc có hiệu quả cao hơn. Hơn nữa, 
những nhân viên đã hài lòng có quyết tâm 
để liên tục hoàn thiện và nâng cao về chất. 
Ngược lại, với những nhân viên không có 
sự hài lòng thường thu mình lại và không 
muốn chia sẻ những kiến thức của họ. Bởi 
vì sự linh hoạt của tổ chức yêu cầu tất cả 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 
88
các nhân viên làm việc dựa trên tri thức. 
Hiểu được những lí do dẫn tới sự không 
hài lòng của nhân viên, những yêu cầu và 
những mong muốn của họ, những định 
hướng để thay đổi là cần thiết cho mọi tổ 
chức. Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng sự 
hài lòng trong công việc là một trong 
những dự đoán tốt nhất về sự trung thành 
của nhân viên, sự hài lòng của nhân viên 
và năng suất trong công việc. Vì vậy, hiển 
nhiên rằng hiệu quả của một tổ chức phụ 
thuộc vào nhân viên. 
3.2.3. Hài lòng cuộc sống: thước đo 
chất lượng dịch vụ xã hội 
Điều này đã được chứng minh qua một 
số địa phương sử dụng Thẻ công dân để 
đánh giá chất lượng dịch vụ công. Các 
doanh nghiệp, các hãng sản xuất, kinh 
doanh cũng thường sử dụng phương pháp 
khảo sát thị trường để đánh giá mức độ 
hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm, 
dịch vụ xã hội. Khảo sát sự hài lòng là 
một trong những công cụ quan trọng nhất 
được sử dụng để thu thập thông tin về ý 
kiến của khách du lịch tới một điểm du 
lịch nào đó. Nhiều nghiên cứu về nguyên 
nhân của sự thất vọng của khách du lịch 
cho thấy rằng những sự bất mãn bắt nguồn 
từ tình trạng quá tải của các điểm đến và 
suy thoái môi trường: quá nhiều khách du 
lịch và người dân, quá nhiều thương mại, 
các khu vực xây dựng quá nhiều, quá 
nhiều lưu lượng truy cập và tắc nghẽn 
mạng, v.v Nghiên cứu sự hài lòng về 
các dịch vụ y tế, kinh doanh là các chỉ báo 
cho biết về chất lượng dịch vụ xã hội như 
thế nào. 
Có thể thấy rằng, nghiên cứu sự phát 
triển xã hội từ cách tiếp cận phi kinh tế 
đang là xu hướng thịnh hành hiện nay, các 
chỉ báo phi kinh tế phản ánh đầy đủ hơn 
chất lượng của sự phát triển vì con người. 
Trong những nghiên cứu từ cách tiếp cận 
phi kinh tế, nghiên cứu sự hài lòng về 
cuộc sống hoặc nghiên cứu hạnh phúc 
thường được quan tâm nhiều hơn. Ở Việt 
Nam, trong lĩnh vực khoa học xã hội và 
nhân văn còn thiếu vắng những nghiên 
cứu này. Hy vọng trong tương lai gần, 
chúng ta có những đề tài khoa học được 
thực hiện một cách bài bản và nghiêm túc 
trên phạm vi quốc gia. 
___________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Báo cáo phát triển Việt Nam 2010 (VDR 
2010). Các thể chế hiện đại. 
2. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cơ 
quan Hợp tác và Phát triển Thuỵ Sĩ; Tổ chức 
HELVETAS Việt Nam, 2010. Sự hài lòng của 
người dân đối với cung cấp dịch vụ công trong 
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, lập 
kế hoạch kinh tế xã hội và quản lý tài chính cấp 
xã 2007 & 2009; Hà Nội, tháng 11. 
3. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công 
cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), 2011. Đo lường từ 
kinh nghiệm thực tiễn của người dân, Hà Nội, 
tháng 4/2012. 
4. GS.VS. Phạm Minh Hạc – GS.TSKH Thái Duy 
Tuyên (chủ biên), 2011. Định hướng giá trị con 
người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập (Sách 
chuyên khảo), Nxb.Chính trị quốc gia. 
5. Hoàng Bá Thịnh, 2011. Đề án Báo cáo thường 
niên Sự hài lòng về cuộc sống, Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
6. Hoàng Bá Thịnh, 2012. Người Việt Nam hài 
lòng thế nào? Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số 26, 
ngày 1/7. 
Sự hài lòng về cuộc sống 
89
7. Andrew, 1997. Effects of divorce on mental health 
through the life course, Johns Hopkins University. 
8. Cambell, A., Converse, P.E. and Rodgers, W.L., 
1976. The quality of American life: Perceptions, 
evaluations, and satisfaction, Russell Sage 
Foundation, New York, 
9. Clark, A. E., 1997. Job satisfaction and gender: 
Why are women so happy at work? Labour 
Economics 4, 341-372. 
10. Diener, E., Suh, E.M., Lucas, R.E. and Smith, 
H.L., 1999. ‘Subjective well-being: Three decades 
of progress’, in Psychological Bulletin, 125, pp. 
276 - 302. 
11. Lim, C., & Putnam, R. D, 2010. Religion, 
Social Networks, and Life Satisfaction. American 
Sociological Review, 75(6), 914-933. 
12. Marshall, G. N., Burnam, M. A., Koegel, P., 
Sullivan, G., & Benjamin, B, 1996. Objective Life 
Circumstances and Life Satisfaction: Results from 
the Course of Homelessness Study. Journal of 
Health and Social Behavior (37), 44-58. 
13. Veenhonven, R, 1993. Happiness in Nations, 
Subjective Appreciation of Life in 56 Nations 
1946-1992, Rotterdam Urasmus University. 
14. UNDP, 2010. Human Development Report 
2010 - 20th Anniversary Edition: The Real Wealth 
of Nations: Pathways to Human Developmen. 

File đính kèm:

  • pdfsu_hai_long_ve_cuoc_song_mot_tiep_can_phi_kinh_te_ve_phat_tr.pdf