Tiểu luận Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hoá.

Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.

Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm và đó cũng là lí do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học”.

Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề hội nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay.

 

doc 37 trang Bích Ngọc 03/01/2024 5240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học

Tiểu luận Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các quốc gia không phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỉ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế, toàn cầu hoá.
Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc phát triển kinh tế của nước ta không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất nước đang gặp khó khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ” và “là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), ký kết hiệp định chung về hợp tác kinh tế với EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Những vấn đề nêu trên là những vấn đề mà em rất tâm huyết, rất quan tâm và đó cũng là lí do, là sự thôi thúc em chọn đề tài: “Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học”.
Và em hi vọng đề tài này sẽ giải đáp được phần nào thắc mắc về vấn đề hội nhập và toàn cầu hoá ở nước ta hiện nay. 
PHẦN 1
CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Lý luận triết học
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó. 
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều mang tính khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến. Bởi lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bìnhNgoài ra, mối liên hệ được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng theo nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và trong mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định. 
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn hiện nay
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến. 
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các địa phương, các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới. 
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối. 
Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [ Thẩm Kỳ Như – Trung Quốc không làm bất tiên sinhViện TTKH, Học viện CTQG HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có được như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát triển.
CƠ SỞ THỰC TẾ :
Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập.
Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – trang 89] Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lường trước được, với những đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nước và các khu vực thay đổi theo hướng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát triển nhanh như các thập kỉ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra; các nước thuộc Liên Xô trước đây và nước Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỷ trước, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả các nước trên thế giới với những mức độ khác nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ  mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh phục tự nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (AFTA)
Hiện nay, các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nước có tiềm năng và thị trường lớn như Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹvà cả một số nước vốn khép kín, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
 ở khu vực Đông Nam áđã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính trầm trọng trong thời gian 1997 -1998, song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý kinh tế của mình, dung lượng thị trường lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào, được đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển
Thế giới ở vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đang chứng kiến những đổi thay sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần xã hội. Toàn cầu hoá nổi lên như một trong ...  hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao (6,4%) và đang là một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Trong giáo dục có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại. Đào tạo chưa gắn với sử dụng, gây lãng phí. Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường đô thị, nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Mức sống nhân dân, nhất là nông dân ở một số quá thấp. Các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và mại dâm lan rộng. Cùng với đó là tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật. Rừng và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm trọng. Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tế – xã hội. Hệ thống tài chính – ngân hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến. 
Nhận thức của Đảng về một số các vấn đề quan trọng trong đường lối đổi mới chưa thống nhất cao nên đổi mới chưa đủ mạnh mẽ, cương quyết. Trong cán bộ đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chính sách về đất đaiViệc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt; kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Công tác tư tưởng, công tác lí luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
Chưa làm rõ nội dung xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chậm phát triển đồng bộ các loại thị trường. Có phần thiếu chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, chậm cải tiến tôt môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Lại thêm tư tưởng bảo hộ còn nặng nề. Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lí và khả năng cạnh tranh. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Cơ chế, chính sách về thị trường tài chính, tiền tệ chưa đồng bộ. 
Chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế chuyển qua một bước mới. Tuy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều Nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được sự nhất trí cao, ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn, trong khi đó, nền kinh tế nước ta còn yếu, tư tưởng bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới quản lý và cải tiến công nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục sẽ bị thua thiệt, thậm chí còn bị tụt hậu xa hơn. Thiếu sót đáng kể là công tác nghiên cứu triển khai chậm, chất lượng thấp. Cho đến nay, ở nước ta còn chưa hiểu thật sâu, chưa nắm thật vững toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nhiều văn kiện pháp lý khác mà nước ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này. Công tác hội nhập quốc tế mới cần tập trung triển khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương; sự tham gia của các ngành, các cấp tuy có được đặt ra nhưng còn yếu và chưa đồng bộ, do đó chưa tạo được sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Thời gian qua chúng ta vừa tiến hành hội nhập, vừa triển khai nghiên cứu những nội dung cam kết để xác định chủ trương, phương hướng hành động nhưng thường bị động đối phó với nhiều khuyến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra; không có đủ cơ sở để hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Luật pháp, chính sách là công cụ để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt động hợp tác kinh tế thương mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu thế thuận lợi hoá, tự do hoá, theo “luật chơi” của các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực. Nhưng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của ta chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây nhiều khó khăn cho ta khi đáp ứng các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc hoàn chỉnh luật pháp và chính sách của ta phải phù hợp với thông lệ quốc tế và những quy tắc của các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt là bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta cũng chưa nghiên cứu sâu để đề xuất những biện pháp chính sách cần thiết, những cách làm khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng những ưu đãi mà quốc tế dành cho nước đang phát triển và kém phát triển như quy chế tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, chế độ hạn ngạch thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá giá bảo vệ lợi ích của ta.
Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh. Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về hai mặt quản lý và công nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh với khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, bất cập về trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương vị và trách nhiệm được giao, một số không ít cán bộ thoái hoá về phẩm chất; chạy theo sự cám dỗ vật chất, sống thực dụng, cửa quyền, hối lộ, sách nhiễu, tham nhũng,ảnh hưởng rất xấu tới uy tín của Đảng và Nhà nước, nhân dân chê trách, gây cản trở lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đồng thời đội ngũ công nhân lành nghề và có thể lực tốt còn ít. Tình trạng thừa thầy, thiếu thợ diễn ra rất phổ biến trong nhiều nganh nghề. Do cách tổ chức và quản lí lao động đã dẫn đến thói “hư danh”; sưu tầm bằng cấp, xin học hàm, chạy học vị,Không những vậy trong cơ cấu độ tuổi của lao động, số lao động trẻ (từ 15 đến 29 tuổi), lứa tuổi chủ lực của nguồn lao động và rất dễ dàng tiếp cận với tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới cũng đang diễn ra tình trạng: thiếu đầu óc kinh doanh hiện đại, cung cách làm ăn lớn; tính toán nhìn xa trông rộng, táo bạo nhạy cảm và năng động với cái mới, thích ứng mau lẹ để xoay chuyển tình thế khi gặp khó khăn; miệt mài học tập, ngẫm nghĩ sâu sắc mọi vấn đề. Tất cả những nhược điểm trên đây đã trở thành lực cản không cho phép chúng ta tiến nhanh.
CÁC KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT TRÊN PHƯƠNG DIỆN TRIẾT HỌC ĐỂ HẠN CHẾ CÁC NHƯỢC ĐIỂM VÀ PHÁT HUY NHỮNG MẶT TÍCH CỰC CỦA TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA
Từ những điều nói trên, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta:
Thứ nhất là phải thống nhất được nhận thức về nhu cầu tất yếu phải hội nhập kinh tế, coi hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ then chốt trong hoạt động kinh tế, nhằm phục vụ lợi ích chung của đất nước. Vấn đề thống về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng, vì hội nhập kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa, thực hiện tự do hoá thương mại sẽ làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa xu bảo hộ với xu hướng tự do hoá; nhiều doanh nghiệp còn yếu kém không đủ sức cạnh tranh, ngại phải thay đổi cách làm cũ, vẫn muốn nhà nước tiếp tục bảo hộ; mâu thuẫn giữa tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, phi thuế quan khi thực hiện tự do hoá sẽ làm giảm nguồn thu ngân sáchNhững mâu thuẫn đó làm cho qúa trình hội nhập kinh tê quốc tế vấp phải không ít trở ngại khi đi vào các vấn đề cụ thể. Thế nên, chỉ khi nào nhận thức thông suốt thì mới có đủ ý chí, bản lĩnh, quyết tâm và sức mạnh để thật sự đưa vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế vào cuộc sống, vào suy nghĩ, vào kế hoạch, chương trình hành động, chiến lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định xã hội, phát huy nội lực, phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và từng doanh nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đánh giá lại tiềm lực kinh tế của đất nước trong mọi lĩnh vực, ngành hàng; nghiên cứu lợi thế so sánh giữa nước ta với khu vực và các nước khácTừ đó xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa hội nhập; xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; xác định ngành mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát triểnNhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xây dựng hành lang pháp lý vừa chặt chẽ lại vừa thông thoáng; xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết đã và sẽ ký kết tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
Thứ ba là chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới một cách có chọn lọc. Nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế. Không bỏ sót, bỏ lỡ cơ hội nhưng cũng không nên quá nôn nóng, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tránh để bị lệ thuộc vào một quốc gia, một thế lực nào đó. Sớm có chủ trương, chính sách và triển khai việc chuyển đổi cơ cấucủa nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, nhằm tạo ra các mặt hàng xuất khẩu đủ lớn về số lượng, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, nhằm tạo ra một đội ngũ doanh nghiệp có đủ quy mô và năng lực, tất cả những yếu tố này cùng với môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo thành một sức mạnh tổng hợp nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Thứ tư là chúng ta cần tiếp cận, dần dần đi vào kinh tế tri thức. Nếu không có tri thức, không phát triển nguồn trí lực đủ tầm sẽ rất khó chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực cũng như trong quan hệ chung với thế giới hiện đại. Bởi tri thức hiện đóng vai trò số một trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức tạo ra những cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng vươn lên rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. 
Tiếp đó, ta cần thu nhập, cập nhật thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, thương mại thế giới, tìm hiểu kĩ thị trường thế giới, dự báo triển vọng, xu hướng biến động và phát triển của nó. Cần nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế, hệ thống pháp luật, các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, các cam kết quốc tếđể có thể chủ động, tránh bị ép trong khi đàm phán, ký kết các cam kết; không bỏ sót, bỏ lỡ mà có thể khai thác triệt để, tận dụng quyền lợi, những ưu tiên, ưu đãi dành cho chúng ta trong quá trình hội nhập. Từ đó tìm được tiếng nói chung về một vấn đề, một lĩnh vực nào đó để tranh thủ càng nhiều càng tốt sự ủng hộ, đồng tình, hợp tác của các đối tác cùng chung lợi ích. 
Thứ năm là xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và bản lĩnh vững vàng. Nhân tố con người là yếu tố quyết định nhất trong các khâu, các hoạt động phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
 Cuối cùng, đó là việc giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy được những giá trị ưu tú của dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đồng thời cũng cần chọn lọc tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới. Chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kì” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt xấu, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
LỜI KẾT
 Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở mức tốt nhất những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách phát triển với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đây là hạn chế, khó khăn căn bản bởi vì củng cố tiềm lực kinh tế càng mạnh sẽ có cơ hội trong việc giữ vị thế, tiếng nói chủ động trong quá trình hội nhập và đặc biệt thương mại quốc tế. Tuy nhiên với thành tựu đạt được qua thời gian gần 20 năm đổi mới cùng với chủ trương đúng đắn phát huy nội lực trong phát triển kinh tế, nước ta sẽ vượt qua khó khăn để đạt mục tiêu tới năm 2020 trở thành quốc gia công nghiệp và xa hơn nữa, vươn lên sánh kịp với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Qua đề tài này em mạnh dạn đưa ra một số những hạn chế, yếu kém của quá trình hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam và một số những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó cũng như nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam nhanh hơn. 
Do còn hạn chế về trình độ, trong quá trình nghiên cứu hẳn không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để công trình nghiên cứu của em hoàn thiện hơn. 
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
Tài liệu tham khảo 
Tác phẩm kinh điển của Mac – Anghen – Lênin
Các tác phẩm của các vị lãnh tụ Lênin, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX
Báo nhân dân ngày 18 tháng 4 năm 2002
Báo nhân dân ngày 18 tháng 9 năm 2002
Báo nhân dân ngày 6 tháng 5 năm 2002
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 16 tháng8 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 21 tháng11 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 24 tháng 12 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 33 tháng 11 – 2002
Tạp chí cộng sản số 2 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 4 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 12 tháng 6 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 9 tháng 3 năm 2002 
Tạp chí cộng sản số 17 tháng 6 năm 2002
Tạp chí cộng sản số 32 tháng 11 năm 2002
Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 3/2001
Tạp chí kinh tế – dự báo số 4/2001
Triết học số 2 (129) tháng 2 – 2002 
Kinh tế phát triển số 44/2001
Tạp chí con số – sự kiện số 6/2002
Tạp chí pháp luật Việt Nam số 29 ngày 3 – 2 -2005
Báo sinh viên Việt Nam số 19 năm 2005
MỤC LỤC

File đính kèm:

  • doctieu_luan_viet_nam_trong_xu_the_hoi_nhap_va_phat_trien_duoi.doc