Tóm tắt Luận án Chế tạo và nghiên cứu các đặc tính của dây nano Si
Ngày nay, vật liệu nanô với những tính chất quang, tính chất
điện với các đặc tính mới so với vật liệu khối đã và đang được các nhà
khoa học nghiên cứu, phát triển với nhiều ứng dụng rộng rãi trong y
học, quân sự, các ngành công nghiệp. Các hình thái của cấu trúc có
kích thước nanô bao gồm: dạng hạt nanô (cấu trúc không chiều), dạng
dây nanô (cấu trúc một chiều) và dạng màng mỏng (cấu trúc hai chiều).
Tuỳ thuộc vào các ứng dụng cụ thể, các nhóm nghiên cứu trong nước
và thế giới tìm hiểu theo định hướng cấu trúc để khai thác hiệu quả tính
chất mới của vật liệu.
Với kích thước nanô, vật liệu Si thể hiện các tính chất đặc biệt
do hiệu ứng giam giữ lượng tử và hiệu ứng bề mặt. Vào năm 1990,
Canham [11] đã nghiên cứu sự phát quang mạnh trong vùng nhìn thấy
của vật liệu Si xốp với mong muốn ứng dụng vật liệu quang điện tử
trong cuộc sống. Cấu trúc Si dạng khối phát huỳnh quang trong vùng
phổ có năng lượng khoảng 1,12 eV ở nhiệt độ phòng trong khi đó phổ
huỳnh quang của các cấu trúc nanô Si như: Si xốp, dây nanô silic
(SiNW) hoặc chấm lượng tử lại dịch chuyển về phía năng lượng cao
khi thu nhỏ kích thước. Ở các hình thái khác nhau cấu trúc của Si với
kích thước nanô (màng, hạt, thanh hoặc dây) xuất hiện thêm nhiều tính
chất vật lý và hóa học mới, thu hút sự quan tâm của nhiều nhóm nghiên
cứu. Do vậy nhiều công trình khoa học đã tập trung nghiên cứu các
hạt nanô cũng như các sợi nanô nhằm giải thích nguồn gốc của sự xuất
hiện dịch chuyển phổ huỳnh quang cũng như tiềm năng ứng dụng
trong khoa học và đời sống.
Silic là vật liệu truyền thống đã được nghiên cứu và ứng dụng
trong công nghiệp bán dẫn và vi điện tử. Hầu hết các linh kiện vi điện
tử, chíp bán dẫn đều được chế tạo dựa trên cơ sở vật liệu Si. Tuy nhiên,
do silic có độ rộng vùng cấm hẹp (Eg1,12 eV tại nhiệt độ phòng), cấu
trúc vùng cấm xiên, hiệu suất quang lượng tử thấp (10-6) dẫn tới hạn
chế khả năng ứng dụng vật liệu silic trong một số linh kiện quang điện
tử như điốt phát quang, laser bán dẫn
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Chế tạo và nghiên cứu các đặc tính của dây nano Si
1 MỞ ĐẦU Ngày nay, vật liệu nanô với những tính chất quang, tính chất điện với các đặc tính mới so với vật liệu khối đã và đang được các nhà khoa học nghiên cứu, phát triển với nhiều ứng dụng rộng rãi trong y học, quân sự, các ngành công nghiệp. Các hình thái của cấu trúc có kích thước nanô bao gồm: dạng hạt nanô (cấu trúc không chiều), dạng dây nanô (cấu trúc một chiều) và dạng màng mỏng (cấu trúc hai chiều). Tuỳ thuộc vào các ứng dụng cụ thể, các nhóm nghiên cứu trong nước và thế giới tìm hiểu theo định hướng cấu trúc để khai thác hiệu quả tính chất mới của vật liệu. Với kích thước nanô, vật liệu Si thể hiện các tính chất đặc biệt do hiệu ứng giam giữ lượng tử và hiệu ứng bề mặt. Vào năm 1990, Canham [11] đã nghiên cứu sự phát quang mạnh trong vùng nhìn thấy của vật liệu Si xốp với mong muốn ứng dụng vật liệu quang điện tử trong cuộc sống. Cấu trúc Si dạng khối phát huỳnh quang trong vùng phổ có năng lượng khoảng 1,12 eV ở nhiệt độ phòng trong khi đó phổ huỳnh quang của các cấu trúc nanô Si như: Si xốp, dây nanô silic (SiNW) hoặc chấm lượng tử lại dịch chuyển về phía năng lượng cao khi thu nhỏ kích thước. Ở các hình thái khác nhau cấu trúc của Si với kích thước nanô (màng, hạt, thanh hoặc dây) xuất hiện thêm nhiều tính chất vật lý và hóa học mới, thu hút sự quan tâm của nhiều nhóm nghiên cứu. Do vậy nhiều công trình khoa học đã tập trung nghiên cứu các hạt nanô cũng như các sợi nanô nhằm giải thích nguồn gốc của sự xuất hiện dịch chuyển phổ huỳnh quang cũng như tiềm năng ứng dụng trong khoa học và đời sống. Silic là vật liệu truyền thống đã được nghiên cứu và ứng dụng trong công nghiệp bán dẫn và vi điện tử. Hầu hết các linh kiện vi điện tử, chíp bán dẫn đều được chế tạo dựa trên cơ sở vật liệu Si. Tuy nhiên, do silic có độ rộng vùng cấm hẹp (Eg1,12 eV tại nhiệt độ phòng), cấu trúc vùng cấm xiên, hiệu suất quang lượng tử thấp (10-6) dẫn tới hạn chế khả năng ứng dụng vật liệu silic trong một số linh kiện quang điện tử như điốt phát quang, laser bán dẫn,. Thế kỷ XXI và thời đại của vật liệu có kích thước nanô, với công nghệ nanô ngày càng phát triển, vật liệu Si có cấu trúc thấp chiều như thanh, dây và đai nanô Si được quan tâm nghiên cứu. Với các ưu điểm như sử dụng vật liệu ít, định hướng tinh thể cao, diện tích bề mặt lớn, độ rộng vùng cấm thay đổi được (bằng cách thay đổi đường kính các cấu trúc nanô một chiều), các cấu trúc nanô Si một chiều được 2 đánh giá là có nhiều tiềm năng đầy hứa hẹn cho các ứng dụng trong lĩnh vực như chế tạo pin mặt trời, cảm biến sinh học, thiết bị quang điện tử,. Tại Việt Nam đã có một số nhóm nghiên cứu màng silic, silic xốp hoặc SiNW và các tính chất của chúng bằng các phương pháp khác nhau như: màng silic, silic xốp pha tạp ecbi bằng điện hoá và các đặc tính quang huỳnh quang của chúng. Nghiên cứu huỳnh quang trong vùng nhìn thấy của silic xốp và huỳnh quang trong vùng hồng ngoại của Si xốp pha tạp ecbi [43, 44]. Hoặc nhóm nghiên cứu Đào Trần Cao-Viện Khoa học Vật liệu-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nghiên đã chế tạo, nghiên cứu tính chất quang và định hướng ứng dụng trong tán xạ Raman tăng cường bề mặt của các hệ dây nanô silic xếp thẳng hàng (AsiNW) trên đế Si bằng phương pháp ăn mòn hóa học có sự trợ giúp của kim loại (metal-assisted chemical etching - MACE) và phương pháp ăn mòn điện hóa có sự trợ giúp của kim loại (metal-assisted electrochemical etching - MAECE) [2]. Bằng phương pháp bốc bay nhiệt nhóm nghiên cứu của Phạm Thành Huy nghiên cứu chế tạo và một số tính chất của dây nano Si và Si:Er3+ [3]. Chính vì vậy nên chúng tôi quyết định chọn vật liệu này làm đối tượng nghiên cứu trong công trình của mình. Trên cơ sở trang thiết bị sẵn có tại bộ môn Vật liệu Điện tử - Viện Vật lí Kỹ thuật, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, nhằm đóng góp một phần hiểu biết chung về công nghệ chế tạo và các tính chất của vật liệu nanô Si nghiên cứu sinh đã thực hiện nội dung của luận án “Chế tạo và nghiên cứu các đặc tính của dây nano Si”. - Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Tổng hợp được các SiNW trên đế Si bằng hai phương pháp phún xạ catốt RF và bốc bay nhiệt từ nguồn rắn; Làm rõ ảnh hưởng của các thông số chế tạo lên hình thái, cấu trúc, tính chất của SiNW; Tìm hiểu nguồn gốc, cơ chế phát huỳnh quang của SiNW và sự ảnh hưởng của các thông số chế tạo lên tính chất phát xạ huỳnh quang. Nhằm đạt được một số mục đích trên, một số nội dung nghiên cứu cụ thể sau đã được thực hiện: - Đối tượng nghiên cứu: Các SiNW chế tạo bằng hai phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn và phún xạ. 3 - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp thực nghiệm. Với từng nội dung nghiên cứu, phương pháp thực nghiệm đã được lựa chọn phù hợp. • Các phương pháp chế tạo vật liệu: SiNW được chế tạo bằng phương pháp bốc bay nhiệt với nguồn vật liệu hỗn hợp Si+C. * SiNW được chế tạo bằng phương pháp phún xạ catốt. • Các phương pháp phân tích tính chất của vật liệu: - Hình thái bề mặt, thành phần pha tinh thể, thành phần hoá học của các mẫu chế tạo được trong luận án đã được khảo sát sử dụng nhiều các phép đo và thiết bị đo hiện đại như: kính hiển vi điện tử quét (SEM) tích hợp với với thiết bị đo phổ tán sắc năng lượng tia X (EDS), hiển vi điện tử truyền qua (TEM), phổ nhiễu xạ tia X và phổ tán xạ Raman. - Tính chất quang huỳnh quang của SiNW đã được khảo sát bằng các phép đo phổ huỳnh quang trong vùng nhìn thấy và vùng hồng ngoại gần. Ngoài ra, cơ chế phát quang được đề xuất trong luận án dựa trên các tài liệu công bố. - Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án: Về lý luận những kết quả của luận án đã góp phần làm sáng tỏ cơ chế phát quang của SiNW nói riêng và của các cấu trúc nanô silic nói chung. Luận án cũng chứng minh có thể điều khiển hình thái, cấu trúc và các tính chất của SiNW bằng cách thay đổi chế độ công nghệ tương đối đơn giản. - Những đóng góp mới của luận án: Việc tổng hợp SiNW bằng phương pháp bốc bay nhiệt đã được nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống. Cụ thể, đã lần lượt khảo sát ảnh hưởng của chiều dày lớp kim loại xúc tác, nhiệt độ tổng hợp, thời gian tổng hợp, lưu lượng khí mang, thành phần nguồn rắn đến hình thái, cấu trúc và tính chất của dây nanô silic. Trên cơ sở đó, có thể chọn chế độ công nghệ thích hợp cho sản phẩm dây nanô silic với đặc tính nhất định. Về lý luận, những kết quả của luận án đã góp phần làm sáng tỏ cơ chế phát quang của SiNW nói riêng và của các cấu trúc nanô silic nói chung. Các đỉnh phổ ở vùng bước sóng ngắn từ 400÷650 nm có liên quan đến các sai hỏng, các exciton tự bẫy và có sai hỏng do nút khuyết ôxi. Trong khi đó, sự phát xạ ở vùng bước sóng dài có thể liên 4 quan đến hiện tượng giam giữ lượng tử trong lõi Si cho các trường hợp SiNW có đường kính nhỏ hoặc/và liên quan đến các cụm nanô silic trong mạng nền SiOx. Từ đó đã thấy rằng sự phát quang này liên quan chặt chẽ với lớp ôxít silic được hình thành trên bề mặt mẫu do quá trình ôxi hóa trong quá trình tổng hợp. Góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về vật liệu silic cấu trúc nanô. Bước đầu đã chế tạo được các SiNW bằng phương pháp phún xạ. - Cấu trúc luận án: Luận án bao gồm 123 trang với 08 bảng, 71 hình vẽ và đồ thị. Ngoài phần mở đầu trình bày lý do chọn vấn đề nghiên cứu và kết luận về những kết quả đã đạt được cũng như một số vấn đề có thể nghiên cứu tiếp tục, luận án được cấu trúc trong 4 chương: Chương 1: Tổng quan về cấu trúc một chiều trên cơ sở vật liệu Si; Chương 2: Nghiên cứu chế tạo SiNW bằng phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn; Chương 3: Nghiên cứu tính chất huỳnh quang, cấu trúc của SiNW; Chương 4: Nghiên cứu chế tạo SiNW bằng phương pháp phún xạ. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CẤU TRÚC MỘT CHIỀU TRÊN CƠ SỞ VẬT LIỆU Si 1.1. Cơ sở về vật liệu có cấu trúc nanô 1.2. Vật liệu silic 1.2.1. Cấu trúc tinh thể silic 1.2.2. Cấu trúc vùng năng lượng của silic 1.3. Đặc tính của dây nanô Si 1.3.1. Tính chất quang của dây nanô Si 1.3.1.1. Phổ Raman của dây nanô silic 1.3.1.2. Phổ hấp thụ của dây nanô silic 1.3.1.3. Phổ huỳnh quang của dây nanô silic 1.3.2. Tính chất nhiệt của dây nanô silic 1.4.3. Tính chất cơ của dây nanô silic 1.3.4. Tính chất điện tử của dây nanô silic 1.4. Một số ứng dụng của dây nanô silic 1.4.1. Pin mặt trời 1.4.2. Pin Lithium sử dụng dây nanô silic 1.4.3. Cải thiện hiệu suất của cấu trúc FET 1.4.4. Cảm biến trên cơ sở dây nanô silic 1.5 Các phương pháp chế tạo Các phương pháp chế tạo SiNW hiện cũng đang trở thành một vấn đề nghiên cứu thu hút và ngày càng phát triển nhanh chóng. Cho đến nay, rất nhiều các công trình nghiên cứu đã tập trung vào việc chế 5 tạo SiNW với các thông số cấu trúc có thể kiểm soát được. Sự khác biệt lớn nhất giữa các phương pháp là cách thức cung cấp nguồn vật liệu Si: nguồn Si đơn chất hoặc hợp chất Si [36, 102]. 1.5.1. Phương pháp lắng đọng hóa học từ pha hơi 1.5.2. Phương pháp laser 1.5.3. Phương pháp epitaxy chùm phân tử 1.5.4. Phương pháp phún xạ RF 1.5.5. Phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO SiNW BẰNG PHƯƠNG PHÁP BỐC BAY NHIỆT TỪ NGUỒN RẮN 2.1. Cơ chế hình thành VLS 2.2. Quy trình chế tạo SiNW trên đế Si bằng phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn 2.3 Hệ thiết bị thí nghiệm và vật liệu hóa chất 2.4. Khảo sát hình thái của SiNW bằng kính hiển vi điện tử quét 2.5. Lựa chọn kim loại xúc tác Hình 2.8 cho thấy hình thái và sự phân bố các hạt hợp kim trên đế Si với các độ dày lớp xúc tác kim loại Au khác nhau. Ta thấy kích thước hạt không đồng đều, mật độ phân bố hạt phụ thuộc vào độ dày lớp xúc tác. Đối với mẫu màng mỏng Au 1 nm và 2 nm, kích thước của các hạt hợp kim xúc tác khoảng từ 20÷50 nm, trong khi đó màng Au có bề dày 4 nm cho các hạt hợp kim có kích thước lớn hơn 50÷80 nm. Hình 2.8 Hình thái bề mặt của hạt Au trên đế Si(111) với độ dày lớp xúc tác Au: 1 nm (a),2 nm (b) và 4 nm (c) sau khi ủ nhiệt ở 1100 oC trong thời gian 15 phút. Việc hình thành các hạt xúc tác có kích thước và mật độ phân bố không đồng đều có thể được lí giải bởi hai nguyên nhân [124]: Thứ nhất, việc tụ đám của các hạt kích thước nhỏ hơn khi nhiệt độ ủ lớn hơn. Thứ hai, do ảnh hưởng bởi bề dày màng xúc tác Au trên 6 đế Si(111). Màng càng dày, kích thước hạt hợp kim xúc tác sau quá trình xử lí nhiệt sẽ càng lớn. Hình 2.9 Hình thái bề mặt hạt Au trên đế Si sau khi ủ nhiệt ở 1100 oC, thời gian ủ khác nhau. Quan sát hình thái bề mặt hạt vàng với thời gian ủ nhiệt khác nhau, chúng tôi thấy rằng khi thời gian ủ kéo dài các hạt hợp kim Au- Si nóng chảy tạo thành giọt lỏng dần dần hình thành nhú mầm của SiNW theo cơ chế SLS. Hình 2.10 Hình thái bề mặt hạt Au trên đế Si sau khi ủ nhiệt tại các nhiệt độ khác nhau, thời gian ủ 15 phút. Nhiệt độ ủ ảnh hưởng tới kích thước cũng như sự phân bố của các hạt hợp kim Au-Si. Tại ủ nhiệt 900 oC cho thấy các hạt Au-Si có kích thước khoảng 20 nm với mật độ phân bố khá dày, nhưng khi nhiệt độ ủ tăng 1100 oC cho thấy kích thước hạt Au-Si khoảng 40÷70 nm với mật độ phân bố thấp hơn. 2.6 Ảnh hưởng của các điều kiện chế tạo lên cấu trúc của SiNW trên đế Si 2.6.1. Vai trò kim loại xúc tác Nhóm nghiên cứu của M. Lajvardi [57] tổng hợp SiNW bằng phương pháp ăn mòn dính ướt đã chỉ ra rằng hình thái của các cấu trúc nanô Si trong quá trình chế tạo phụ thuộc nhiều vào độ dày lớp xúc tác Ag, và chỉ ra độ dày lớp tối ưu là 10 nm cần thiết để chế tạo các SiNW. Ngoài ra S. Leela và đồng nghiệp [59] tổng hợp SiNW bằng phương pháp PECVD sử dụng kim loại xúc tác Au, chỉ ra rằng độ dày lớp xúc tác ảnh hưởng đến kích thước SiNW. Quan sát trên ảnh SEM thể hiện 7 ở Hình 2.13 đối với các mẫu dây Si chúng tôi chế tạo được với độ dày lớp xúc tác Au khác nhau, SiNW hình thành có kích thước to nhỏ đan xen nhau trong khoảng từ 10÷50 nm đồng thời mật độ hình thành ở các vị trí không đồng đều. Kết quả hình thái bề mặt của SiNW cho thấy kích thước cũng như mật độ SiNW phụ thuộc vào kích thước, mật độ phân bố của hạt hợp kim hình thành trên đế Si. Kích thước SiNW trong khoảng từ 10÷80 nm, các SiNW nhỏ đan xen các dây lớn, kết quả thu được khá tương đồng với kết quả hình thái hạt vàng. Hình 2.13 Hình thái bề mặt của hệ SiNW tổng hợp tại 1100 oC thời gian 60 phút, lưu lượng khí 150 sccm, tỷ lệ Si:C (4:1), độ dày Au trên đế Si: a) 1 nm, b) 2 nm, c) 4 nm Chúng tôi tiến hành tổng hợp SiNW không sử dụng xúc tác kim loại Au và sử dụng xúc tác Au. Kết quả cho thấy nếu không có xúc tác Au thì việc hình thành dây trở nên khó khăn hơn (không hình thành) khi có xúc tác nếu tiến hành tạo mẫu trong cùng một điều kiện chế tạo (Hình 2.14). Hình 2.14 Hình thái bề mặt của SiNW tổng hợp tại 1100 oC, thời gian 60 phút, lưu lượng khí 150 sccm, tỷ lệ Si:C (4:1) với: a) Không xúc tác, b) xúc tác Au. a) b) c) 8 Kết quả thu được của chúng tôi, là thông tin để khẳng định rõ vai trò của kim loại xúc tác trong quá trình tổng hợp SiNW. Một số nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu không sử dụng kim loại xúc tác thì điều kiện chế tạo SiNW thành công với nhiệt độ khoảng 1350 oC và thời gian mọc kéo dài khoảng 2÷3 giờ [4, 32, 62, 82]. 2.6.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên cấu trúc của SiNW Theo giản đồ pha cho thấy tồn tại một trạng thái lỏng giữa kim loại xúc tác vàSi đồng thời sự hình thành hợp chất cùng tinh (eutectic). Khi tăng thành phần Si trong pha lỏng, tạo ra trạng thái quá bão hòa, gây ra sự tách pha giữa Si và kim loại xúc tác. Do vậy, việc lựa chọn nhiệt độ trong kỹ thuật bốc bay nhiệt chân không phụ thuộc vào điểm cùng tinh của kim loại đóng vai trò xúc tác. Nhóm nghiên cứu của Z. W. Pan cùng cộng sự [82] chỉ ra rằng SiNW có thể tổng hợp bằng phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn trong điều kiện nhiệt độ bằng hoặc lớn hơn 1000 oC, còn dưới 900 oC không hình thành SiNW, mà chỉ tạo thành dây SiOx vô định hình. Hình 2.15 Hình thái bề mặt của hệ SiNW tổng hợp tại các nhiệt độ khác nhau trong khoảng thời gan 60 phút, lưu lượng khí 150 sccm và tỷ lệ Si:C (4:1). Với nhiệt độ 900 oC, cho thấy SiNW chưa hình thành, bề mặt vẫn chỉ là các hạt Au hình thành do sự nứt vỡ màng mỏng Au ở nhiệt độ cao hoặc co cụm lại thành các hạt hình cầu để giảm năng lượng liên kết của các nguyên tử Au trên bề mặt đế Si. Tại nhiệt độ tổng hợp 1000 oC, bắt đầu có sự hình thành SiNW nhưng còn khá ngắn và mật độ dây chưa đồng đều. Như vậy với kết quả khảo sát 9 cho thấy rằng, nhiệt độ tổng hợp dưới 1000 oC, sự phát triển SiNW là khó và nếu có thể xảy ra với tốc độ rất chậm. Tại nhiệt độ tổng hợp SiNW 1100 oC cho thấy SiNW hình thành với mật độ dây cao hơn, đường kính dây khá nhỏ cỡ khoảng 20 nm. Nếu nhiệt độ tổng hợp tiếp tục tăng (khoảng 1200 oC) chúng tôi thấy kích thước và sự đồng đều dây sẽ thay đổi, có thể hình thành các SiNW có kích ... n của hạt nanô Si hình thành hơi SiO. Hơi Si bay hơi từ hạt nanô Si và hơi SiO cùng lúc khuếch tán vào hạt kim loại xúc tác Au, khi đạt trạng thái bão hoà do xu hướng tách pha, Si sẽ khuếch tán về vùng đã có nhiều Si, trong khi SiO2 khuếch tán về vùng có nhiều SiOx dẫn tới hiện tượng phân pha và hình thành cấu nên trúc lõi Si và lớp SiOx bao bọc như đã quan sát thấy trên Hình 3.5. * Thứ tư: Sự hình thành lớp ôxít silic sau khi mẫu SiNW tiếp xúc với môi trường khí quyển [47]. 17 3.2.5. Ảnh hưởng của lưu lượng khí lên phổ huỳnh quang Quan sát trên phổ PL ở Hình 3.11 của ba mẫu tương ứng trên cho thấy đỉnh phát xạ 600-700 nm với cường độ mạnh chỉ xuất hiện ở mẫu dây với tốc độ lưu lượng khí 150 sccm, ngoài ra còn xuất hiện đỉnh phát xạ 520 nm. Chứng tỏ với lưu lượng khí này SiNW đồng thời vừa hình thành lớp ôxít silic vừa hình thành lõi tinh thể Si. Khi giảm tốc độ lưu lượng khí xuống 100 sccm, phổ huỳnh quang của mẫu xuất hiện các đỉnh phát xạ khoảng từ 400÷550 nm. Như vậy với lưu lượng dòng chảy khí này SiNW hình thành chủ yếu lớp ôxít silic. Chúng tôi tiến hành giảm tốc độ lưu lượng khí 50 sccm, cho thấy phổ huỳnh quang của mẫu SiNW hầu như không xuất hiện các đỉnh phát xạ. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với hình thái bề mặt mẫu thu được (Hình 2.18). Hình 3.11 Phổ huỳnh quang của hệ SiNW tổng hợp tại 1100 oC, thời gian 60 phút, tỷ lệ Si:C (4:1) với lưu lượng khí khác nhau. Từ phổ huỳnh quang chúng tôi đã quan sát thấy được sự tăng huỳnh quang mẫu SiNW khi lưu lượng khí tăng lên đến 150 sccm và cũng đã thấy rằng sự tăng cường huỳnh quang này có liên quan chặt chẽ với nồng độ nút khuyết ôxi có trong lớp ôxít của dây Si. Từ đó, chúng tôi cho rằng, có sự ôxi hóa xảy ra trong quá trình hình thành SiNW và đó cũng là nguyên nhân chính gây ra sự tăng hoặc giảm cường độ huỳnh quang của các mẫu. Khi lưu lượng tăng mạnh, cụ thể với lưu lượng khí lên đến 300 sccm, phổ huỳnh quang của mẫu chúng tôi đo ở hai dải phổ từ 420 ÷ 500 nm (tương ứng năng lượng 2,95 ÷ 2,48 eV) và 720 ÷ 800 nm (tương ứng năng lượng 1,72 ÷ 1,55 eV), cho thấy xuất hiện hai đỉnh phát xạ 480 nm, 760 nm. Như vậy với lưu lượng khí 300 sccm dây SiNW luôn hình thành lớp ôxít silic bao bọc lõi tinh thể Si. 18 Hình 3.12 Phổ huỳnh quang của SiNW với lưu lượng khí 300 sccm. 3.2.6. Ảnh hưởng của nguồn vật liệu lên phổ huỳnh quang Quan sát thấy phổ huỳnh quang hai mẫu này (Hình 2.13) đều bao gồm hai đỉnh. Với trường hợp mẫu SiNW hình thành với tỷ lệ vật liệu nguồn Si:C=4:0,5 phổ huỳnh quang xuất hiện các đỉnh phát xạ khoảng 400 nm và 500 nm. Một điểm nữa có thể quan sát là đỉnh phổ nhỏ tại bước sóng ~ 760 nm (1,63 eV). Sự tồn tại đỉnh phổ này có liên quan đến sự tái hợp của các tâm phát quang trong cấu trúc lõi của Si, do các khuyết tật cũng như các sai hỏng trong quá trình tổng hợp ở nhiệt độ cao gây ra. Hình 3.13 Phổ huỳnh quang của SiNW tổng hợp tại 1100 oC, thời gian 60 phút, lưu lượng khí 150 sccm với tỷ lệ Si:C tương ứng a) 4:0,5; b) 4:1. Rõ ràng rằng, với tỷ lệ Si:C nêu trên, SiNW hình thành với tốc độ phát triển chậm, ngắn và chủ yếu hình thành lớp ôxít silic, bên cạnh đó lõi tinh thể Si cũng hình thành với kích thước khá nhỏ. Khi tỷ lệ hỗn hợp tăng lên với tỷ lệ Si:C=4:1, ta quan sát thấy thấy dạng phổ với các “vai” quan sát tại các vùng bước sóng khoảng 520, 640 và 700 nm. Chúng tôi cho rằng, các đỉnh ứng với bước sóng thấp nhỏ hơn 640 nm vẫn do các tâm phát xạ của lớp ôxít silic và phân biên gây ra. Đỉnh 700 nm có thể liên quan đến quá trình tái hợp của các hạt tải điện có trong bản thân lõi Si và với lớp tiếp giáp phân biên Si/SiOx hoặc do hạt nanô tinh thể Si. Như vậy ở điều kiện tổng hợp này SiNW hình thành với cấu trúc Si/SiOx. 19 3.2.7. Ảnh hưởng của độ dày lớp xúc tác kim loại Au lên phổ huỳnh quang Hình 3.14 Phổ huỳnh quang của SiNW tổng hợp tại 1100 oC, thời gian 60 phút, lưu lượng khí 150 sccm với độ dày Au trên đế Si là: 1, 2 và 4 nm. Tổng hợp SiNW với độ dày lớp xúc tác Au là 1 và 4 nm xuất hiện đỉnh phát xạ trong khoảng 400-500 nm, nguồn gốc các đỉnh phát xạ này do các nút khuyết ôxi trong lớp SiOx cũng như phát xạ tại phân biên của cấu trúc lõi Si/lớp ôxít silic. Chứng tỏ tại nhiệt độ tổng hợp 1100 oC trong khoảng thời gian 60 phút, SiNW hình thành chủ yếu lớp ôxít silic tạo thành. Đối với độ dày lớp xúc tác Au trên đế Si 2 nm, xuất hiện thêm đỉnh phát xạ 640 và 700 nm do sai hỏng hoặc khuyết tật bề mặt hoặc tái hợp trong lõi Si gây ra. Kết quả này cho thấy SiNW hình thành lõi tinh thể Si đồng thời hình thành lớp ôxít silic. 3.3. Phổ tán xạ Raman Phổ Raman của các dây nanô được nuôi trên đế Si tại vùng có phủ kim loại xúc tác và ủ ở nhiệt độ 1100 oC (Hình 3.17). Phổ Raman của mẫu được đặc trưng bởi một đỉnh duy nhất tại 516 cm-1. So với phổ Raman của Si khối đỉnh dao động này đã dịch chuyển về phía tần số thấp (cỡ 4 cm-1) và có sự mở rộng phổ bất đối xứng so với đỉnh phổ của đế Si dạng khối (đỉnh phổ Si khối khoảng 520 cm-1). Điều này có thể được giải thích bởi các khuyết tật trong cấu trúc SiNW ví dụ như sự có mặt của các nguyên tử ôxi hoặc sự sắp xếp của các tinh thể nanô silic có kích thước nhỏ. Để giảm các khuyết tật trong SiNW, chúng tôi đã tiến hành ủ trực tiếp trong buồng chân không (áp suất ~10-2 mmHg) sử dụng bơm cơ học của hệ CVD. Khí trơ Ar được đưa vào buồng phản ứng của hệ CVD bằng bộ điều khiển lưu lượng khí GFC. Sau quá trình phản ứng, mẫu được làm nguội từ từ (10 oC/min) trong điều kiện chân không của buồng phản ứng. 20 Hình 3.17 Phổ Raman đo ở nhiệt độ phòng: a) đế Si, b) SiNW. Quá trình tiến hành ủ mẫu tại nhiệt độ 1100 oC trong thời gian 2 giờ. Trong quá trình chế tạo, trước khi mọc dây Si, các hạt xúc tác (Au-Si) phải hạn chế tiếp xúc với môi trường bên ngoài để tránh khả năng hình thành lớp ôxít silic trên đế Si (111). Việc hình thành lớp SiOx với không khí của môi trường sẽ làm cản trở quá trình mọc dây Si. Hình 3.18 Phổ Raman đo ở nhiệt độ phòng của SiNW sau khi ủ. 3.4. Cấu trúc tinh thể và thành phần pha của SiNW Giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) của SiNW chế tạo từ vật liệu nguồn Si:C là 4:1 tương ứng với các mẫu SiNW đã được phân tích hình thái bề mặt bằng các phép đo FESEM (Hình 2.21) trong chương 2. Giản đồ nhiễu xạ của mẫu SiNW trên Hình 3.19 nhận được chỉ bao gồm các đỉnh nhiễu xạ liên quan đến Si và kim loại xúc tác Au. Các đỉnh nhiễu xạ liên quan đến đế Si có cường độ rất yếu. Bên cạnh các đỉnh của kim loại xúc tác Au, là các đỉnh với cường độ nhiễu xạ mạnh liên quan đến cấu trúc tinh thể của vật liệu SiNW. Chúng tôi đã quan sát được trong SiNW có tồn tại một số cấu trúc tinh thể định hướng: , , , , trong đó đỉnh Si có cường độ mạnh nhất, điều đó có nghĩa trong quá trình hình thành, SiNW có xu hướng mọc theo hướng này. Như kết quả phân tích ảnh TEM, mẫu nhận được là SiNW có cấu trúc lõi Si và lớp ôxít silic. Đây cũng nhược 21 điểm của phương pháp bốc bay nhiệt tổng hợp SiNW từ vật liệu nguồn silic và cácbon. Chúng tôi cũng cho rằng, lớp ôxít silic có cấu trúc vô định hình chỉ tạo phông trên giản đồ XRD. Hình 3.19 Giản đồ XRD: a) Đế Si, b) SiNW đo ở nhiệt độ phòng. Kết hợp với kết quả đo XRD và TEM, chúng tôi có thể kết luận mẫu nhận được là SiNW có cấu trúc lõi Si và lớp SiOx. Wagner và Ellis [118] trong nghiên cứu của mình về sự hình thành cấu trúc thanh Si định hướng và bị uốn theo các hướng khác là và với nhiều mật độ định hướng khác. Sự phát triển của SiNW với định hướng sẽ bị thay đổi do sai hỏng trong cấu trúc SiNW, dẫn đến sự phát triển cũng như định hướng SiNW theo các hướng khác nhau. Hình 3.20 Kết quả phân tích EDS của mẫu SiNW. Kết quả phân tích EDS (của mẫu dây Si sử dụng lớp xúc tác Au với độ dày 2 nm thể hiện trên Hình 3.20. Các kết quả cho thấy thành phần mẫu chủ yếu gồm có các nguyên tố Si, O và sự hiện diện của nguyên tố Au gần như không có do lớp xúc tác mỏng đồng thời trong quá trình tổng hợp ở nhiệt độ cao thời gian dài thì mầm xúc tác mất đi khi trong quá trình nuôi SiNW. CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO SiNW BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÚN XẠ 4.1. Cơ chế phún xạ 4.2. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp phún xạ 4.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình phún xạ 22 4.4. Kim loại xúc tác Quan sát hình thái bề mặt mẫu (Hình 4.6) cho thấy sự phân bố, kích thước hạt Au trên đế Si với độ dày màng Au khác nhau. Cho thấy kích thước cũng như sự phân bố hạt phụ thuộc độ dày Au. Với độ dày màng Au là 0,5 nm cho kích thước hạt khoảng 5 nm, trong trường hợp này sự phân bố hạt khá đồng đều. Hình 4.6 Hình thái bề mặt của hạt Au trên đế Si(111) với độ dày lớp xúc tác Au: 0,5 nm (a), 1 nm (b) và 2 nm (c) sau khi ủ nhiệt ở 600 oC, thời gian 15 phút, p10-5 mbar. Khi độ dày lớp màng Au tăng lên 1 nm, kích thước hạt tăng lên khoảng 7÷8 nm. Trong cả hai trường hợp, mật độ các hạt xúc tác khá cao. Khi ủ nhiệt lớp Au lớn hơn 1 nm cho thấy kích thước phân bố hạt thay đổi đáng kể, kích thước hạt Au có thể tăng lên 10÷20 nm và có phân bố không đồng nhất, các hạt nhỏ nằm xen kẽ các hạt lớn và hình dạng các hạt Au không tròn đều. Kết quả trên cho thấy màng vàng càng dày dẫn đến đường kính của hạt vàng càng lớn và có sự phân bố lại kích thước. 4.5. Khảo sát hình thái, kích thước của SiNW bằng kính hiển vi điện tử Hình 4.7 Hình thái bề mặt của SiNWs mọc trên Si (111) với độ dày lớp xúc tác Au: 0,5 nm ( a), 1 nm ( b) và 2 nm ( c ) tại nhiệt độ 600 oC, thời gian 120 phút, công suất nguồn RF 85 W. a) b) c) 23 Kết quả tổng hợp SiNW (Hình 4.7), có thể thấy kích thước các SiNW cho ba trường hợp đế phủ màng Au với kích thước khác nhau là khá tương đồng cỡ 50 nm. Điều này khác so với trường hợp bốc bay nhiệt. Kết quả này cho chúng tôi nhận xét về sự thay đổi kích thước hạt Au diễn ra trong quá trình hình thành dây Si trong khoảng thời gian 120 phút nêu trên, các hạt Au nhỏ sẽ dễ dàng kết hợp với nhau. Sự di chuyển các hạt Au nhỏ để hình thành các hạt Au có kích thước lớn hơn nhằm giảm thiểu năng lượng liên kết bề mặt. Hình 4.9 cho thấy hình thái bề mặt của SiNW thu được, SiNW hình thành với kích thước nhỏ khoảng 30÷50 nm, xuất hiện với mật độ khá dày bề mặt nhẵn. Hình 4.9 Hình thái bề mặt của SiNW với độ dày Au 1 nm, nhiệt độ 450 oC, thời gian 120 phút. 4.6. Phổ huỳnh quang của SiNW Phổ huỳnh quang của các dây Si nhận được bằng phương pháp phún xạ (Hình 4.10) cho thấy phổ huỳnh quang bao gồm hai vùng: vùng bước sóng thấp từ 400÷550 nm và vùng bước sóng lớn hơn từ 700÷800 nm. Có thể thấy với trường hợp phổ huỳnh quang của mẫu phún xạ, vùng bước sóng thấp vẫn do sự phát xạ của các sai hỏng bề mặt cấu trúc, trong khi vùng có đỉnh khoảng 750 nm là sự tái hợp của các hạt tải gây ra bởi hiệu ứng giam giữ lượng tử các hạt tải điện trong dây Si hoặc các sai hỏng tại biên Si/SiOx. Hình 4.10 Phổ huỳnh quang của SiNW chế tạo bằng phương pháp phún xạ. 24 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ➢ Đã chế tạo được SiNW bằng hai phương pháp bốc bay nhiệt từ nguồn rắn và phương pháp phún xạ, gồm các dây nhỏ đan xen các dây có kích thước lớn nằm trong khoảng từ 10÷90 nm. ➢ Việc tổng hợp SiNW bằng phương pháp bốc bay nhiệt đã được nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống. Cụ thể, đã lần lượt khảo sát ảnh hưởng của chiều dày lớp kim loại xúc tác, nhiệt độ tổng hợp, thời gian tổng hợp, lưu lượng khí mang, thành phần nguồn rắn đến hình thái, cấu trúc và tính chất của dây nanô silic. Trên cơ sở đó, có thể chọn chế độ công nghệ thích hợp cho sản phẩm dây nanô silic với đặc tính nhất định. ➢ Đã khảo sát cấu trúc dây nanô Si, quan sát cấu trúc lõi vỏ gồm lõi Si và lớp ôxít vô định hình SiOx. Tùy thuộc vào kích thước SiNW và điều kiện chế tạo lõi Si có kích thước từ vài nm đến vài chục nm. Sự hình thành lõi Si được khẳng định qua phép đo EDS về thành phần và quan sát sự dịch đỉnh phổ Raman. Các dây Si mọc theo các hướng khác nhau như , , , . ➢ Về lý luận, những kết quả của luận án đã góp phần làm sáng tỏ cơ chế phát quang của SiNW nói riêng và của các cấu trúc nanô silic nói chung. Các đỉnh phổ ở vùng bước sóng ngắn từ 400÷650 nm có liên quan đến các sai hỏng, các exciton tự bẫy và có sai hỏng do nút khuyết ôxi. Trong khi đó, sự phát xạ ở vùng bước sóng dài có thể liên quan đến hiện tượng giam giữ lượng tử trong lõi Si cho các trường hợp SiNW có đường kính nhỏ hoặc/và liên quan đến các cụm nanô silic trong mạng nền SiOx. Từ đó đã thấy rằng sự phát quang này liên quan chặt chẽ với lớp ôxít silic được hình thành trên bề mặt mẫu do quá trình ôxi hóa trong quá trình tổng hợp. ➢ Điều kiện công nghệ chế tạo SiNW thay đổi, hình thái SiNW thu được khác nhau dẫn đến phổ huỳnh quang xuất hiện ở các đám với vị trí bước sóng khác nhau đã được nghiên cứu và thảo luận. Từ đó đã thấy rằng sự phát quang này liên quan chặt chẽ với lớp ôxít silic được hình thành trên bề mặt mẫu do quá trình ôxi hóa trong quá trình tổng hợp. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN 1. Nguyen Thi Thuy, Vuong Xuan Anh, Ha Viet Anh, Nguyen Duc Chien, Nguyen Huu Lam (2011), Nghiên cứu chế tạo dây silic bằng phương pháp bốc bay nhiệt và phương pháp phún xạ catốt. Tuyển tập báo cáo hội nghị Vật lí Chất rắn và Khoa học Vật liệu toàn quốc lần thứ 7, tr.112-117. 2. Thuy Nguyen Thi, Tuan Hoang Nguyen, Tu Nguyen, Chien Duc Nguyen, Lam Huu Nguyen (2012), Characterization of silicon nanowires grown by sputtering method. International Conferrence on Advanced Materials and Nanotechnology (ICAMN2012), tr.28-32. 3. Nguyễn Thị Thúy, Phạm Viết Văn, Hoàng Quang Sơn, Vương Xuân Anh, Nguyễn Hoàng Tuấn, Nguyễn Đức Chiến, Nguyễn Hữu Lâm (2012), Chế tạo dây nano Silic bằng phương pháp bốc bay nhiệt. Tạp chí Khoa học & Công nghệ các trường Đại học Kỹ thuật số 90-2012, tr.114-118. 4. Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Hoàng Tuấn, Nguyễn Duy Hùng, Nguyễn Đức Chiến, Nguyễn Hữu Lâm (2013), Ảnh hưởng của nguồn rắn trong quá trình hình thành dây nano Silic bằng phương pháp bốc bay nhiệt. Hội nghị Vật lý Chất rắn và Khoa học Vật liệu toàn quốc lần thứ 8 (SPMS-2013), tr. 289-292. 5. Thuy Thi Nguyen, Anh Xuan Vuong, Luan Duc Mai, Tuan Hoang Nguyen, Tu Nguyen, Chien Duc Nguyen, Lam Huu Nguyen (2013), Growth of silicon nanowires by sputtering and evaporation methods. Physica Status Solidi A (PSSa) 210, No.7, pp1429-1432, IF=1,648. 6. Nguyễn Thị Thúy, Đỗ Đức Chính, Nguyễn Công Tú, Đặng Đức Vượng, Nguyễn Đức Chiến, Nguyễn Hữu Lâm (2015), Chế tạo và nghiên cứu hiệu ứng giam giữ lượng tử của dây nano silic mọc định hướng thẳng. Hội nghị Vật lý Chất rắn và Khoa học Vật liệu toàn quốc lần thứ 9 (SPMS-2015), tr. 259-262. 7. Nguyen Thi Thuy, Do Duc Tho, Nguyen Cong Tu, Dang Duc Vuong, Nguyen Duc Chien, Nguyen Huu Lam (2016), Structural and optical Properties of Si-Core/SiOx-Shell Nanowires. Journal of Electronic Materials, Doi: 10.1007/s1 1664-016-5237-3.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_che_tao_va_nghien_cuu_cac_dac_tinh_cua_day_n.pdf