Tóm tắt Luận án Nghiên cứu áp dụng công nghệ tuyến nổi áp lực trong xử lý nước cấp với nguồn nước mặt khu vực đồng bằng bắc bộ
Nguồn nước mặt cấp cho sinh hoạt của các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc
Bộ (ĐBBB) chủ yếu từ hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Tuy
nhiên, chất lượng nguồn nước ngày càng có nguy cơ bị ô nhiễm do
phải tiếp nhận nhiều nguồn thải khác nhau. Trong khi đó, nhu cầu
dùng nước của vùng ĐBBB ngày càng tăng. Do vậy, cần phải tìm
kiếm áp dụng các công nghệ xử lý nước phù hợp đảm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng của người tiêu dùng.
Công nghệ xử lý nước mặt hiện nay chủ yếu đều áp dụng công nghệ
lắng truyền thống. Với công nghệ này chỉ loại bỏ được phần lớn hàm
lượng cặn vô cơ, một phần cặn hữu cơ và hầu như không lắng được
cặn nhẹ, dẫn đến chất lượng nước sau xử lý có thể không đảm bảo an
toàn. Mặt khác, nếu quá trình keo tụ và lắng không hiệu quả, thì bể lọc
sẽ phải làm việc với tải trọng chất bẩn cao, dẫn đến phải rửa lọc nhiều.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới để nâng cao
chất lượng nước sau xử lý, tiết kiệm chi phí xây dựng và vận hành là
rất cần thiết. Những khó khăn và nguy cơ đang đối mặt tại các NMN
trong khu vực như đã trình bày ở trên có thể giải quyết được bằng một
số công nghệ mới, trong đó có công nghệ tuyển nổi áp lực (DAF).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận án Nghiên cứu áp dụng công nghệ tuyến nổi áp lực trong xử lý nước cấp với nguồn nước mặt khu vực đồng bằng bắc bộ
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG _________________________________ Nguyễn Mạnh Hùng NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ TUYẾN NỔI ÁP LỰC TRONG XỬ LÝ NƯỚC CẤP VỚI NGUỒN NƯỚC MẶT KHU VỰC ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ Chuyên ngành: Kỹ thuật cơ sở hạ tầng Mã số: 62.58.02.10 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KỸ THUẬT Hà Nội - Năm 2015 2 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Xây dựng Người hướng dẫn khoa học 1. PGS.TS. Nguyễn Việt Anh Người hướng dẫn khoa học 2. TS. Phạm Tuấn Hùng Phản biện 1: PGS.TS. Mai Liên Hương Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dung Phản biện 3: GS. TS. Dương Thanh Lượng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại Trường Đại học Xây dựng Vào hồi .... giờ ..... ngày .... tháng .... năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện Trường Đại học Xây dựng. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Nguồn nước mặt cấp cho sinh hoạt của các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB) chủ yếu từ hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nước ngày càng có nguy cơ bị ô nhiễm do phải tiếp nhận nhiều nguồn thải khác nhau. Trong khi đó, nhu cầu dùng nước của vùng ĐBBB ngày càng tăng. Do vậy, cần phải tìm kiếm áp dụng các công nghệ xử lý nước phù hợp đảm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của người tiêu dùng. Công nghệ xử lý nước mặt hiện nay chủ yếu đều áp dụng công nghệ lắng truyền thống. Với công nghệ này chỉ loại bỏ được phần lớn hàm lượng cặn vô cơ, một phần cặn hữu cơ và hầu như không lắng được cặn nhẹ, dẫn đến chất lượng nước sau xử lý có thể không đảm bảo an toàn. Mặt khác, nếu quá trình keo tụ và lắng không hiệu quả, thì bể lọc sẽ phải làm việc với tải trọng chất bẩn cao, dẫn đến phải rửa lọc nhiều. Chính vì vậy, việc nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới để nâng cao chất lượng nước sau xử lý, tiết kiệm chi phí xây dựng và vận hành là rất cần thiết. Những khó khăn và nguy cơ đang đối mặt tại các NMN trong khu vực như đã trình bày ở trên có thể giải quyết được bằng một số công nghệ mới, trong đó có công nghệ tuyển nổi áp lực (DAF). Từ các kết quả nghiên cứu và áp dụng ở trên Thế giới cho thấy công nghệ DAF có hiệu quả cao trong việc loại bỏ các cặn bẩn có kích thước nhỏ không thể lắng trong các bể lắng nhưng có thể dính bám và nổi theo các bọt khí. Những ưu điểm của công nghệ DAF cho thấy tiềm năng áp dụng trong lĩnh vực xử lý nước mặt ở Việt Nam. 1. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá khả năng áp dụng công nghệ DAF trong xử lý nước cấp cho sinh hoạt đối với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB. Nghiên cứu làm chủ công nghệ DAF để áp dụng trong xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB. Đề xuất dây chuyền xử lý nước áp dụng công nghệ DAF với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB và xác định các thông số kỹ thuật chủ yếu của công nghệ DAF. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu áp dụng công nghệ DAF để áp dụng trong dây chuyền xử lý nước mặt. Phạm vi nghiên cứu: Nguồn nước mặt từ hệ thống sông Hồng – Thái Bình của vùng ĐBBB. 4. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu tổng quan: Nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu và áp dụng công nghệ DAF ở trên Thế giới và Việt Nam, để tổng hợp và kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có nhằm áp dụng để nghiên cứu đề tài luận án. Nguyên cứu lý thuyết: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về công nghệ DAF để hiểu được bản chất cơ chế hoạt động và các yếu tổ ảnh hưởng đến quá trình tuyển nổi. Nghiên cứu thực nghiệm: Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu có trước và cơ sở lý thuyết về DAF, tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để kiểm chứng và xác định các thông số làm việc của DAF với nguồn nước mặt vùng ĐBBB. Đề xuất các thông số kỹ thuật chủ yếu của dây chuyền xử lý nước mặt áp dụng công nghệ DAF. Xác định các chỉ tiêu kinh tế của nhà máy nước áp dụng công nghệ DAF. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng để thực hiện bao gồm: - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp kế thừa. - Phương pháp điều tra và thu thập số liệu. - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. - Phương pháp mô hình hóa. - Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm. - Phương pháp chuyên gia. 3 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Việc áp dụng công nghệ DAF mở ra hướng đi mới trong lĩnh vực xử lý nước mặt cấp cho sinh hoạt và công nghiệp ở Việt Nam, cho phép đạt hiệu quả xử lý cao, chất lượng nước sau xử lý đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn về cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp. Dây chuyền xử lý nước áp dụng công nghệ DAF cho phép loại bỏ bể lắng cồng kềnh khó lắng các loại cặn nhẹ, do vậy sẽ giảm được diện tích đất xây dựng NMN. Nâng cao chất lượng nước trước khi vào bể lọc, nhờ vậy kéo dài được chu kỳ lọc và giảm được chi phí rửa lọc. Độ ẩm của cặn sau tuyển nổi (93-94%) nhỏ hơn so với độ ẩm của cặn sau lắng (97-98%), do vậy công trình xử lý bùn cặn của công nghệ DAF nhỏ hơn so với công nghệ lắng truyền thống. Công nghệ DAF có hiệu quả xử lý cao hơn so với lắng truyền thống, điều đó khẳng định hướng nghiên cứu của đề tài là hoàn toàn phù hợp. Vì vậy, công nghệ DAF rất cần được áp dụng trong thực tiễn, nhằm đảm bảo chất lượng nước sau xử lý và đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. 7. Những đóng góp mới của luận án Lần đầu tiên ở Việt Nam, nghiên cứu đã khẳng định công nghệ DAF hoàn toàn áp dụng được đối với nguồn nước mặt của ĐBBB. Bể tuyển nổi thay thế được bể lắng đối với NMN cải tạo và xây mới. Bằng việc nghiên cứu tổng quan, nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, đã làm chủ được công nghệ DAF để áp dụng trong xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB. Đã đề xuất dây chuyền xử lý nước áp dụng công nghệ DAF để xử lý nước cấp với nguồn nước mặt của ĐBBB cụ thể là: Với độ đục nước nguồn < 350 NTU, sử dụng dây chuyền: Keo tụ – Tuyển nổi – Lọc nhanh – Khử trùng. Với độ đục nước nguồn > 350 NTU, phải bổ sung thêm bể sơ lắng. Đã đề xuất các thông số kỹ thuật chủ yếu của công nghệ DAF để xử lý nguồn nước mặt vùng ĐBBB phù hợp với điều kiện Việt Nam, cụ thể là: i) Thời gian phản ứng tạo bông cặn Tf =10-18 phút; ii) Tỷ lệ nước tuần hoàn R = 10-20%, phải tăng tỷ lệ tuần hoàn R lên 20-25% khi độ đục của nước thô cao; iii) Áp suất bão hòa Pbh = 4,5-5,0 bar ; iv) Thời 4 gian tiếp xúc Tcz = 1,0-2,0 phút; v) Tải trọng thủy lực trong vùng tách cặn Vsz= 5-12 m3/m2.h; và một số các thông số khác có liên quan. Chương 1. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN 1.1 TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC CỦA KHU VỰC 1.1.1 Hệ thống sông của vùng Đồng bằng Bắc Bộ Vùng ĐBBB được hình thành bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Do hệ thống sông Thái Bình có nối với sông Hồng bởi sông Đuống ở Thượng Lưu và sông Luộc ở hạ lưu, vì vậy thường gọi là hệ thống sông Hồng – Thái Bình. Hệ thống này giúp phân nước sông Hồng khi mùa lũ. Các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình được mô tả trong hình 1.1 dưới đây. Hình 1.1: Hệ thống sông của vùng đồng bằng Bắc Bộ 1.1.2 Đánh giá chung về chất lượng nước Chất lượng nước sông của vùng ĐBBB nói chung thường dao động theo mùa và theo vùng địa lý. Đặc điểm chung của chất lượng nước 5 các sông vùng ĐBBB là độ pH tương đối ổn định, hàm lượng cặn và độ đục biến động theo mùa, độ đục cao nhất xuất hiện trong các tháng mùa lũ. Nhìn chung chất lượng nước hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, tương đối tốt, đáp ứng tiêu chuẩn nước thô dùng để xử lý sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Tuy nhiên, ở một số khu vực gần các khu công nghiệp, khu đô thị, các khu đông dân cư, nguồn nước sông có nguy cơ bị nhiễm bẩn bởi các nguồn nước thải và chất thải không qua xử lý. 1.2. TỔNG QUAN VỀ TUYỂN NỔI ÁP LỰC 1.2.2. Khái niệm về tuyển nổi áp lực Sơ đồ dây chuyền công nghệ tuyển nổi áp lực được mô tả trong hình 1.2, bao gồm bốn giai đoạn: i) Giai đoạn keo tụ và tạo bông; ii) Giai đoạn hình thành bọt khí; iii) Giai đoạn tiếp xúc ; iv) Giai đoạn tách cặn. Hình 1.2: Sơ đồ công nghệ DAF Các giai đoạn xử lý của công nghệ tuyển nổi áp lực như sau: - Giai đoạn keo tụ và tạo bông: Quá trình keo tụ và tạo bông cặn nhằm tạo ra các tác nhân có khả năng dính bám các chất làm bẩn nước ở dạng hòa tan và hoặc lửng thành các bông cặn có kích thước lớn. Nước chứa các phần tử cặn hoặc các bông cặn chảy vào bể tuyển nổi và được dính bám vào các bọt khí trong vùng tiếp xúc. Quá trình keo tụ và tạo bông cho tuyển nổi tương tự như lắng. Đối với trình lắng, kích thước bông cặn càng to thì càng dễ lắng, ngược lại đối với tuyển nổi thì lại cần bông cặn kích thước nhỏ. - Giai đoạn hình thành bọt khí: Không khí có áp suất cao được hoà tan vào dòng nước tuần hoàn trong bình bão hoà. Dòng nước tuần hoàn được lấy từ phía sau bể tuyển nổi, không khí được cấp từ máy nén khí. Dòng nước tuần hoàn bão hòa khí được đưa vào ngăn tiếp xúc của bể tuyển nổi thông qua các vòi phun và hình thành các bọt khí kích thước rất nhỏ db = 10-100 µm trong vùng tiếp xúc. 6 - Giai đoạn tiếp xúc: Vùng tiếp xúc được đặt ở phía đầu bể tuyển nổi, tại đây các bọt khí được hình thành tiếp xúc và dính bám các bông cặn với bọt khí và hình thành tổ hợp bông cặn - bọt khí. - Giai đoạn tách cặn: Các bọt khí và tổ hợp bông cặn- bọt khí, được chảy sang vùng tách cặn của bể tuyển nổi. Tại đây, bọt khí tự do và tổ hợp bông cặn – bọt khí được nổi lên bề mặt tạo thành lớp váng nổi. Theo thời gian, lớp váng nổi càng dày đặc như là một lớp bùn và được gạt vào ngăn thu bùn, nước trong được thu ở phía dưới đáy bể. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu và áp dụng công nghệ tuyển nổi áp lực ở trên Thế giới 1.2.2.1 Tình hình nghiên cứu và phát triển Công nghệ DAF lần đầu tiên được nghiên cứu áp dụng trong xử lý nước cấp ở Phần Lan vào những năm 1920. Bể tuyển nổi thời đó có hình dạng bể dài, nông, tải trọng thuỷ lực Vzs < 5m3/m2.h, và đạt hiệu suất thấp nên không tìm thấy nhiều ứng dụng, trừ lĩnh vực xử lý nước thải của công nghiệp giấy. Những năm 1960, các chuyên gia Thụy Điển, sau đó là Phần Lan tiến hành nghiên cứu và cải tiến các bể tuyển nổi để áp dụng trong xử lý nước cấp. Trong những năm 1970-1990, khá nhiều NMN áp dụng công nghệ DAF đã được xây dựng ở Bắc Âu và Anh quốc. Từ đó trở đi, công nghệ DAF đã được phổ biến rộng rãi trên Thế giới như một giải pháp thay thế bể lắng truyền thống. Giai đoạn những năm 1960 - 1970 là giai đoạn có nhiều nghiên cứu về DAF, đóng góp cho sự phổ biến nhanh của công nghệ này trong công nghiệp. Một số nghiên cứu điển hình về tạo bọt khí, tính chất của bọt, ảnh hưởng của kích thước bọt đến hiệu suất xử lý, keo tụ và tạo bông, về sự va chạm và dính bám của bọt khí vào bông cặn được thực hiện. Nhiều nhà máy xử lý nước áp dụng công nghệ DAF với quy mô công suất vừa và lớn đã được xây dựng ở khắp nơi trên Thế giới. 1.2.2.2. Tình hình áp dụng trong lĩnh vực xử lý nước cấp Trên Thế giới, công nghệ DAF được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực xử lý nước cấp, nước thải và xử lý bùn cặn cùng với sự phát triển của công nghệ và kỹ thuật trong lĩnh vực cấp thoát nước. Trong lĩnh vực 7 xử lý nước cấp các công ty chuyên về xử lý nước như hãng Leopold, Degrémont (Pháp), GHD, KWI (Úc), ETS, Envirowise (Mỹ), AJM Environ DAF, Australia, vv... đều đã và đang áp dụng công nghệ DAF. Tại Mỹ, công nghệ DAF lần đầu tiên được áp dụng ở Lenox, bang Massachusets vào những năm 1980. Đến nay, khoảng trên 100 nhà máy nước sử dụng DAF ở Mỹ, với công suất từ nhỏ( <3800 m3/ngày) đến lớn (vài trăm ngàn m3/ngày). Nhà máy xử lý nước sử dụng công nghệ DAF cấp nước cho khu vực Croton, New York, được đưa vào sử dụng năm 2012, có công suất lên tới 1,1 triệu m3/ngày. 1.2.3 Tình hình nghiên cứu và áp dụng ở Viêt Nam Một số nghiên cứu về việc áp dụng công nghệ DAF trong lĩnh vực xử lý nước cấp, cụ thể như sau: - Đề tài nghiên cứu phát triển công nghệ DAF để xử lý nước và bùn cặn trong xử lý nước cấp đô thị với nguồn nước mặt ở Hà Nội (PGS.TS. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Mạnh Hùng và nnk, Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường, 2008) do Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội quản lý. - Đề tài nghiên cứu áp dụng công nghệ DAF để xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt của các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (PGS.TS. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Mạnh Hùng và nnk, Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam, 2013), do Bộ Xây dựng quản lý. - Luận án cũng đã kế thừa kết quả nghiên cứu của hai đề tài trên của nhóm nghiên cứu mà tác giả là nghiên cứu chính, để áp dụng nghiên cứu cho đề tài của luận án, cụ thể là: Nghiên cứu tổng quan về tuyển nổi áp lực; Nghiên cứu cụ thể về mô hình thí nghiệm tuyển nổi áp lực cũng như vòi phun và thùng bão hòa khí; Nội dung nghiên cứu thực nghiệm của NMN Thái Bình được kế thừa như một nội dung của đề tài nghiên cứu của Luận án. Từ đó phát triển các nội dung nghiên cứu tiếp theo với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB. - Năm 2010, Công ty TNHH một thành viên Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên Huế (HueWACO) đã tiếp cận và nhập khẩu trọn bộ công nghệ DAF kết hợp bể lọc (In Filter DAF) của nước ngoài để áp dụng tại NMN Sông Nông, huyện Phú Lộc và NMN Điền Môn, huyện 8 Quảng Điền. Sau khi được chuyển giao công nghệ, Công ty HueWACO đã phát triển thành đề tài Nghiên cứu công nghệ In Filter DAF cho NMN di động. Về thực chất, đề tài này chỉ đơn thuần là ứng dụng công nghệ nhập khẩu của Mỹ vào một nguồn nước cụ thể có quy mô công suất cụ thể ở Huế. Do vậy, cơ sở khoa học và tự chủ về công nghệ thiết bị và khả năng nhân rộng còn hạn chế. 1.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT 1.3.1 Những vấn đề còn tồn tại Ở Việt Nam hiện nay công nghệ tuyển nổi nói chung và DAF nói riêng bước đầu được áp dụng trong lĩnh vực xử lý nước thải công nghiệp. Việc áp dụng công nghệ tuyển nổi trong lĩnh vực xử lý nước cấp, cũng như xử lý bùn cặn đang trong giai đoạn nghiên cứu. Việc áp dụng công nghệ DAF trong lĩnh vực xử lý nước cấp với nguồn nước mặt khu vực phía Bắc bước đầu đã được viện khoa học và kỹ thuật môi trường (IESE), trường Đại học Xây dựng (ĐHXD) nghiên cứu. Nội dung của đề tài là nghiên cứu phát triển công nghệ và thiết bị xử lý nước cấp và nước rửa lọc, bùn cặn từ trạm xử lý nước bằng công nghệ DAF với nguồn mặt có độ đục cao như sông Hồng và sông Trà Lý và chưa có nghiên cứu rộng với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB. Mặc dù trên Thế giới đã nghiên cứu và áp dụng rộng rãi công nghệ DAF trong xử lý nước cấp, nhưng họ đều có những bí quyết công nghệ riêng và đã được đăng ký bản quyền. Vì vậy, muốn áp dụng công nghệ DAF được ở Việt Nam thì phải nhập khẩu dây chuyền công nghệ và thiết bị với chi phí rất cao và việc chuyển giao công nghệ cũng khó khăn do có sự khác biệt về trình độ công nghệ và vận hành. Mặt khác, thông tin về công nghệ DAF trong các tài liệu về xử lý nước được đề cập rất sơ lược. Chưa có nghiên cứu cụ thể để áp dụng công nghệ ... ể tuyển nổi <2.5 NTU. Vì vậy, tải trọng chất bẩn vào bể lọc giảm, nhờ đó thời gian làm việc của bể lọc tăng. Điều này khẳng định thêm một ưu thế quan trọng của công nghệ DAF. Chất lượng nước sau tuyển nổi áp lực tương ứng với các thông số làm việc của công nghệ DAF có thể so sánh tương đương với các kết quả đã nghiên cứu đã công bố ở trên Thế giới và các nghiên cứu về công nghệ tuyển nổi của ở Việt Nam. Bằng việc nghiên cứu thực nghiệm ngoài hiện trường có đủ những thông tin cần thiết cũng như hiểu được bản chất, làm chủ được dây chuyền công nghệ về việc xử lý nước bằng DAF. Điều này đủ cơ sở đề xuất các thông số thiết kế chính của dây chuyền công nghệ xử lý nước áp dụng công nghệ DAF cho nguồn nước mặt của vùng ĐBBB, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Chương 4. ĐỀ XUẤT DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ TUYỂN NỔI ÁP LỰC VÀ CÁC THÔNG SỐ KỸ THUẬT CHỦ YẾU 4.1 ĐỀ XUẤT DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC MẶT ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ TUYỂN NỔI ÁP LỰC 4.1.1 Đề xuất dây chuyền công nghệ Dây chuyền công nghệ: Với độ đục nước nguồn < 350NTU, dây chuyền công nghệ: Keo tụ – Tuyển nổi – Lọc nhanh – Khử trùng; Với 18 độ đục nước nguồn > 350 NTU phải bổ sung thêm bể sơ lắng. Dây chuyền xử lý nước áp dụng công nghệ DAF được đề xuất trong hình vẽ 4.1 dưới đây. Hình 4.1: Sơ đồ dây chuyền xử lý nước áp dụng công nghệ tuyển nổi 4.1.2 Đối tượng áp dụng Đối với nguồn nước có độ đục thấp khoảng <10 NTU, công nghệ DAF hoạt động hiệu quả cao với tỷ lệ dòng tuần hoàn R = 9-11% , độ đục sau bể tuyển nổi từ 0.8-1.5 NTU. Đối với nguồn nước có độ đục từ 10-50 NTU, công nghệ DAF hoạt động hiệu quả với tỷ lệ dòng tuần hoàn R = 10-14%, độ đục sau bể tuyển nổi từ 1.0-1.8 NTU. Đối với nguồn nước có độ đục từ 50-100 NTU, công nghệ DAF hoạt động hiệu qủa với tỷ lệ dòng tuần hoàn R = 12-15%, độ đục sau bể tuyển nổi từ 1.3-1.8 NTU. Đối với nguồn nước có độ đục từ 100-200 NTU, công nghệ DAF hoạt động hiệu quả với yêu cầu tỉ lệ dòng tuần hoàn R = 15-20%, độ đục sau bể tuyển nổi từ 1.5-2.5 NTU. Đối với độ đục từ 200-350 NTU, công nghệ DAF hoạt động tương đối hiệu quả và tỉ lệ dòng tuần hoàn R = 20-25%, độ đục sau bể tuyển nổi từ 2-3 NTU. Muốn giảm độ đục xuống thấp hơn giá trị này phải tiếp tục tăng tỷ lệ dòng tuần hoàn. 19 Hình 4.2: Đối tượng áp dụng công nghệ tuyển nổi áp lực với nguồn nước thô có độ đục khác nhau Với độ đục >350NTU, phải bố trí bể sơ lắng để nâng cao hiệu suất xử lí và giảm chi phí hóa chất, chi phí xử lí bùn cặn. 4.2 ĐỀ XUẤT CÁC THÔNG SỐ KỸ THUẬT CHỦ YẾU 4.2.1 Quá trình keo tụ và tạo bông Các thông số kỹ thuật chủ yếu của quá trình keo tụ và tạo bông như: Thời gian trộn hóa chất keo tụ vào nước; cường độ khuấy trộn của bể trộn và bể phản ứng; và số giai đoạn phản ứng cho tuyển nổi tương tự như lắng. Khác biệt của quá trình keo tụ và tạo bông trước tuyển nổi và lắng chính là thời gian phản ứng. Thời gian phản ứng trước tuyển nổi nhỏ hơn so với lắng để tạo bông cặn có kích thước df < 100µm thông thường df = 25-50µm. Thời gian phản ứng Tf = 10-15 phút. 4.2.2 Quá trình tạo bọt khí Các thông số kỹ thuật chủ yếu của quá trình tạo bọt khí bao gồm: i) tỷ lệ dòng nước tuần hoàn; ii) Áp suất thùng bão hòa (P); iii) Thời gian bão hòa (Tbh). - Tỷ lệ nước tuần hoàn R = 10-15%, đối với nguồn nước có độ đục <100 NTU, tỷ lệ nước tuần hoàn R = 15-20% đối với nguồn nước có 20 độ đục từ 100-200 NTU. Đối với nguồn nước có độ đục từ 200-350 NTU, tỷ lệ nước tuần hoàn R = 20-30%. - Áp suất làm việc của thùng bão hòa: Không khí có áp suất cao từ máy nén khí cấp vào thùng bão hòa và hòa tan với dòng nước tuần hoàn để tạo bọt khí kích thước nhỏ. Áp suất trong thùng bão hoà Pbh = 4,2-5,0 bar, áp suất bão hòa làm việc hiệu quả Pbh = 4.5-5.0 bar. - Thời gian lưu nước trong thùng bão hòa Tbh = 0,5 - 2 phút, thông thường 1,5 phút. Lượng khí cấp vào nước 6-12 g air/m3. 4.2.3 Quá trình tiếp xúc Các thông số kỹ thuật chủ yếu của quá trình tiếp xúc bao gồm: i) Kích thước bọt khí (db); ii) Thời gian tiếp xúc (Tcz); iii) Nồng độ bọt khí. Kích thước bọt khí: Kích thước bọt khí (db) càng nhỏ thì hiệu suất xử lý càng lớn. Kích thước Rmin của bọt khí phụ thuộc áp suất làm việc của thùng bão hòa và lực căng bề mặt khí – nước. Kích thước bọt khí trong vùng tiếp xúc db = 10-100µm, trung bình db = 60µm. Thời gian tiếp xúc: Việc tăng thời gian lưu nước trong vùng tiếp xúc (Tcz) làm tăng hiệu suất vùng tiếp xúc. Thời gian này được xác định bằng việc xác định kích thước vùng tiếp xúc ứng với lưu lượng thiết kế. Thời gian lưu nước trong vùng tiếp xúc thườngTcz = 1-2.5 phút, tải trọng thủy lực trong vùng tiếp xúc Vsz = 100-200 m3/m2.h. Nồng độ bọt khí trong vùng tiếp xúc. Nồng độ bọt khí có thể thay đổi nhờ việc thay đổi áp suất bão hòa hoặc thay đổi tỷ lệ tuần hoàn. Tuy nhiên, áp suất bão hòa không thay đổi nhiều, nên cách chủ yếu để thay đổi nồng độ không khí trong vùng tiếp xúc là tăng hay giảm tỷ lệ nước tuần hoàn (R). 4.2.4 Quá trình tách cặn Các thông số kỹ thuật chủ yếu của quá trình của quá trình tách cặn bao gồm: i) Tải trọng thủy lực (Vsz); ii) Tỷ lệ chiều dài và chiều rộng bể; iii) Chiều sâu bể. - Tải trọng thủy lực: Vận tốc dâng của bọt khí vb và vận tốc của tổ hợp bọt khí – bông cặn vfb lớn hơn vận tốc đi xuống của dòng nước thì mới tách được tổ hợp bông cặn - bọt khí. Vận tốc đi xuống của dòng 21 nước chính là tải trọng thuỷ lực (Vsz) của vùng tách cặn. Tải trọng thuỷ lực của vùng tách cặn Vsz = 5-12 m3/m2.h. Vận tốc dâng của bọt khí và tổ hợp bọt khí – bông cặn như đã nói ở phần trên là 20 m3/m2.h lớn hơn tải trọng thuỷ lực sẽ được nổi trên mặt nước. - Tỷ lệ chiều dài (Ls)và chiều rộng (Ws) của vùng tách cặn Ls/Ws nên ≤ 4 thông thường = 2, chiều sâu bể Hs = 2.0-3.5m. 4.3 ĐÁNH GIÁ CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ 4.3.1 Nguyên tắc chung Các chỉ tiêu kinh tế của NMN áp dụng công nghệ DAF được tính toán với các quy mô công suất điển hình từ 2000 m3/ngày - 100.000 m3/ngày. Việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế được thực hiện bằng việc xác định chi phí đầu tư xây dựng và chi phí vận hành bảo dưỡng. Để việc thuận tiện trong việc phân tích các chỉ tiêu kinh tế, có tính thêm chi phí vận hành bảo dưỡng của NMN áp dụng công nghệ lắng để so sánh và đối chứng. NMN áp dụng công nghệ DAF và NMN áp dụng công nghệ lắng truyền thống khác nhau ở các hạng mục: Bể phản ứng – Lắng – Lọc (công nghệ lắng) và Bể phản ứng – Tuyển nổi – Lọc (công nghệ DAF). Các hạng mục khác của NMN đều giống nhau như: Trạm bơm, bể chứa, nhà hóa chất và các công trình phụ trợ khác. Công trình xử lý bùn cặn của công nghệ DAF nhỏ hơn so với công nghệ lắng truyền thống, do độ ẩm của cặn sau tuyển nổi (93-94%) nhỏ hơn so với độ ẩm của cặn sau lắng (97-98%). 4.3.2 Đánh giá các chỉ tiêu kinh tế Suất đầu tư xây dựng NMN áp dụng công nghệ DAF nhỏ hơn 0.9-0.95 lần so với NMN áp dụng công nghệ lắng vì những lý do sau: i) Bể phản ứng – tuyển nổi có kích thước nhỏ hơn bể phản ứng – lắng do thời gian phản ứng nhỏ hơn và tải trọng thủy lực của bể tuyển nổi lớn hơn bể lắng. Vì vậy, chi phí xây dựng cụm bể phản ứng – tuyển nổi nhỏ hơn 0.65-0.75 lần so với xây dựng cụm bể phản ứng lắng; ii) Chi phí xử lý bùn cặn của công nghệ DAF nhỏ hơn 0.9 lần so với công 22 nghệ lắng truyền thống, do độ ẩm của cặn sau tuyển nổi (93-95%) nhỏ hơn so với độ ẩm của cặn sau lắng (97-99%). Chi phí vận hành và bảo dưỡng của NMN áp dụng công nghệ DAF lớn hơn 1,03-1,06 lần so với NMN áp dụng công nghệ lắng vì những lý do sau: i) Chu kỳ lọc của bể lọc sau bể tuyển nổi cũng được kéo dài hơn so với bể lọc sau bể lắng từ 1,3-1,8 lần. Do vậy, chi phí điện năng để rửa bể lọc của công nghệ DAF tiết kiệm được 0,03-0,05kw/m3 so với công nghệ lắng truyền thống; ii) Chi phí vận hành của công trình của công trình xử lý bùn cặn của công nghệ DAF nhỏ hơn 0,85-0,9 lần so với công nghệ lắng , do độ ẩm của cặn sau tuyển nổi (93-94%) nhỏ hơn so với độ ẩm của cặn sau lắng (97-98%). 4.4 BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Quá trình keo tụ là một trong các yếu tố quan trọng đối với công nghệ DAF. Để hình thành bông cặn nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho việc dính bám bọt khí vào bông cặn , thời gian phản ứng Tf = 10-18 phút, trong khi đó đối với lắng thời gian phản ứng Tf = 15-25 phút. Áp suất bão hòa (Pbh) và tỷ lệ dòng nước tuần hoàn (R) cũng là yếu tố quan trọng để tạo ra bọt khí có kích thước nhỏ và nồng độ bọt khí trong vùng tiếp xúc, từ đó làm tăng hiệu quả xử lý của bể tuyển nổi . Áp suất bão hòa thông thường Pbh = 4,2-5,0 bar, áp suất bão hòa làm việc hiệu quả Pbh = 4.5-5.0 bar . Tỷ lệ nước tuần hoàn R = 10-20 %, đối với nguồn nước có độ đục <200 NTU. Đối với nguồn nước có độ đục từ 200-350 NTU, tỷ lệ nước tuần hoàn R = 20-30%. Thời gian lưu nước trong vùng tiếp xúc (Tcz) có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất làm việc của vùng tiếp xúc. Thời gian lưu nước trong vùng tiếp xúc Tcz = 1-3 phút, tải trọng thủy lực của vùng tiếp xúc Vcz = 100- 200 m3/m2.h. Vận tốc dâng của tổ hợp bọt khí – bông cặn Vfb phải lớn hơn vận tốc đi xuống của dòng nước thì mới tách được tổ hợp bông cặn - bọt khí. Vận tốc đi xuống của dòng nước chính là tải trọng thuỷ lực (Vsz) của vùng tách cặn. Tải trọng thuỷ lực của vùng tách cặn Vsz = 5-12 m3/m2.h. Chất lượng nước sau tuyển nổi áp lực của nghiên cứu này có thể so sánh tương đương với các kết quả đã nghiên cứu đã công bố ở trên Thế giới và Việt Nam. Công nghệ DAF có hiệu quả xử lý cao hơn so 23 với lắng truyền thống, độ đục của nước sau bể lắng thông thường từ 2- 5 NTU, trong khi độ đục của nước sau bể tuyển nổi <2.5 NTU, do đó làm giảm tải trọng chất bẩn vào bể lọc và tăng chu kỳ lọc của bể lọc. Các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khi so sánh trạm xử lý nước với công nghệ DAF cũng có nhiều ưu điểm so với công nghệ lắng truyền thống. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI Kết luận Công nghệ DAF đã được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực xử lý nước cấp và nước thải ở trên Thế giới. Tại Việt Nam, công nghệ DAF mới được áp dụng để xử lý nước thải công nghiệp và bắt đầu được nghiên cứu ứng dụng để xử lý nước cấp cho sinh hoạt. Vì vậy, việc nghiên cứu để áp dụng công nghệ DAF trong xử lý nước cấp với nguồn nước mặt vùng ĐBBB là rất cần thiết. Nghiên cứu của đề tài đã đánh giá và khẳng định công nghệ DAF hoàn toàn áp dụng được đối với nguồn nước mặt vùng ĐBBB. Bể tuyển nổi thay thế được bể lắng trong dây chuyền công nghệ xử lý nước. Kết hợp nghiên cứu tổng quan, nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đã làm chủ được công nghệ DAF để áp dụng trong xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt vùng ĐBBB phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đã đề xuất dây chuyền công nghệ xử lý nước áp dụng công nghệ DAF với nguồn nước mặt vùng ĐBBB, cụ thể như sau: Với độ đục nước nguồn < 350 NTU, dây chuyền công nghệ: Keo tụ – Tuyển nổi – Lọc nhanh – Khử trùng; Với độ đục nước nguồn > 350 NTU phải bổ sung thêm bể sơ lắng. Tùy theo độ đục của nguồn nước mặt trong vùng ĐBBB, đã đưa ra được dây chuyền xử lý nước bằng công nghệ DAF. Đã đề xuất các thông số kỹ thuật chủ yếu của các công trình trong dây chuyền xử lý nước bằng công nghệ DAF. Cụ thể là: i) Thời gian phản ứng tạo bông cặn Tf =10-18 phút; ii) Tỷ lệ nước tuần hoàn R = 10- 20%, phải tăng tỷ lệ tuần hoàn R lên 20-25% khi độ đục của nước thô cao; iii) Áp suất bão hòa Pbh = 4,5-5,0 bar ; iv) Thời gian tiếp xúc Tcz = 1,0-2,0 phút; v) Tải trọng thủy lực trong vùng tách cặn Vsz = 5-12 24 m3/m2.h; và các thông số khác có liên quan đến quá trình tuyển nổi áp lực. Đã tính toán các chỉ tiêu kinh tế của công nghệ DAF và so sánh với công nghệ lắng truyền thống, cụ thể là: Suất đầu tư xây dựng NMN áp dụng công nghệ DAF nhỏ hơn 0.9-0.95 lần so với NMN áp dụng công nghệ lắng truyền thống, tuy nhiên chi phí vận hành và bảo dưỡng của NMN áp dụng công nghệ DAF lớn hơn 1,02-1,06 lần so với NMN áp dụng công nghệ lắng truyền thống. Từ các nghiên cứu đã có ở trên Thế giới và kết quả nghiên cứu của đề tài cũng đã khẳng định bể tuyển nổi làm việc hiệu quả hơn bể lắng. Công nghệ DAF có hiệu quả xử lý cao hơn so với lắng truyền thống, độ đục của nước sau bể lắng thông thường từ 2-5 NTU, trong khi độ đục của nước sau bể tuyển nổi <2.5 NTU. Vì vậy, giảm tải trọng chất bẩn vào bể lọc, làm tăng chu kỳ lọc của bể lọc từ 1,3-1.8 lần. Kiến nghị Công nghệ DAF là một trong các công nghệ xử lý nước tiên tiến, cho phép nâng cao chất lượng nước sau xử lý. Chính vì vậy, cần tiếp tục được nghiên cứu và kiểm chứng ở các công trình thực tế để hoàn thiện các thông số thiết kế và vận hành, tiến tới đưa vào trong tiêu chuẩn thiết kế làm cơ sở cho việc lập dự án và thiết kế các công trình xử lý nước mặt áp dụng công nghệ DAF ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận án mới dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm và trên mô hình thí nghiệm ngoài hiện trường. Do vậy, cần được nghiên cứu áp dụng thí điểm ở công trình sản xuất thực tế với quy mô khác nhau, để đánh giá chất lượng nước sau xử lý và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của công nghệ này, từ đó áp dụng rộng rãi trong xử lý nước. Công nghệ DAF cần được phổ biến áp dụng trong thực tiễn để xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt của vùng ĐBBB và các khu vực khác, nhằm đảm bảo chất lượng nước sau xử lý đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người sử dụng. 25 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DÙNG LÀM TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO LUẬN ÁN [1]. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Mạnh Hùng và nhóm nghiên cứu (2008), Báo cáo tổng hợp, đề tài Nghiên cứu phát triển công nghệ tuyển nổi áp lực để xử lý nước và bùn cặn trong xử lý nước cấp đô thị với nguồn nước mặt ở Hà nội. Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Hà Nội. [2]. Nguyễn Việt Anh và nhóm nghiên cứu (2014), Báo cáo tổng hợp đề tài: Nghiên cứu phát triển công nghệ tuyển nổi áp lực để xử lý nước cấp cho sinh hoạt với nguồn nước mặt của các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Xây dựng, Hà Nội. [3]. Nguyen Viet Anh, Nguyen Manh Hung, Vu thi Minh Thanh, Pham Minh Tu, Vu Bao Lan (2007), “Dissolved air flotation – a promising solution to improve water quality and sludge treatment performance in Viet nam”, Proceedings of the 5th International Conference on Flotation, Seoul – Korea, pp 181- 182. [4]. Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Mạnh Hùng, Vũ Thị Minh Thanh (2013), “Kết quả nghiên cứu công nghệ mới xử lý nước cấp – Tuyển nổi áp lực”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, số15/3-2013, tr. 49-57. [5]. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Việt Anh (2014), “Nghiên cứu áp dụng công nghệ tuyển nổi áp lực trong xử lý nước cấp với nguồn nước mặt khu vực đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Cấp thoát nước, số 5(97)/2014, tr. 34-40. [6]. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Việt Anh (2014), “Nghiên cứu đánh giá khả năng áp dụng công nghệ tuyển nổi áp lực để xử lý nước mặt phù hợp với điều kiện Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng, số 11/2014, tr. 113-116.
File đính kèm:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_ap_dung_cong_nghe_tuyen_noi_ap_lu.pdf