Trần đức thảo - Cuộc đời và sự nghiệp triết học
Giáo sư Trần Đức Thảo sinh tại xã Song
Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong
một gia đình viên chức nhỏ. Đỗ tú tài vào
loại xuất sắc, ông vào học Trường Luật tại
Hà Nội 1 năm; sau đó sang Pháp chuẩn bị
dự thi vào Trường Cao Đẳng Sư phạm phố
d’Ulm. Đây là trường nổi tiếng của nền
giáo dục Đại học Pháp, mà người Việt
Nam du học thời kỳ ấy không mấy người
được vào học. Năm 1939, Trần Đức Thảo
thi đỗ cao vào trường này. Ba năm sau, ông
thi tốt nghiệp đạt thủ khoa, nhận bằng Cử
nhân với đề tài Phương pháp hiện tượng
học của Husserl. *
Năm 1942 - 1943, Trần Đức Thảo học
và đạt bằng Thạc sĩ Triết học loại hạng
nhất, lúc đó ông mới 26 tuổi. Trong thời kỳ
này, một số tờ báo ở Pháp và Đông Dương
đã đăng thông tin này và coi đó là sự kiện
nổi bật về một tài năng thiên phú. Năm
1943 – 1944, Trần Đức Thảo đăng ký viết
luận án tiến sĩ với đề tài Phương pháp hiện
tượng học Husserl tại Trường Sư phạm
phố d’Ulm
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trần đức thảo - Cuộc đời và sự nghiệp triết học
TRẦN ĐỨC THẢO - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRIẾT HỌC NGUYỄN ĐÌNH TƯỜNG* Giáo sư Trần Đức Thảo sinh tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Đỗ tú tài vào loại xuất sắc, ông vào học Trường Luật tại Hà Nội 1 năm; sau đó sang Pháp chuẩn bị dự thi vào Trường Cao Đẳng Sư phạm phố d’Ulm. Đây là trường nổi tiếng của nền giáo dục Đại học Pháp, mà người Việt Nam du học thời kỳ ấy không mấy người được vào học. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ cao vào trường này. Ba năm sau, ông thi tốt nghiệp đạt thủ khoa, nhận bằng Cử nhân với đề tài Phương pháp hiện tượng học của Husserl. * Năm 1942 - 1943, Trần Đức Thảo học và đạt bằng Thạc sĩ Triết học loại hạng nhất, lúc đó ông mới 26 tuổi. Trong thời kỳ này, một số tờ báo ở Pháp và Đông Dương đã đăng thông tin này và coi đó là sự kiện nổi bật về một tài năng thiên phú. Năm 1943 – 1944, Trần Đức Thảo đăng ký viết luận án tiến sĩ với đề tài Phương pháp hiện tượng học Husserl tại Trường Sư phạm phố d’Ulm. Trước năm 1944, nước Pháp và nhiều nước khác ở Châu Âu chịu sự thống trị của phát xít Đức. Lúc này ảnh hưởng của triết học Đức, đặc biệt là triết học I.Kant, Hegel và Husserl, đối với giới triết học phương Tây nói chung và triết học Pháp nói riêng vẫn còn rất lớn. Thông qua việc nghiên cứu những đại biểu này, người ta mong muốn * Phó giáo sư, tiến sỹ, Viện Triết học. giải quyết cuộc khủng hoảng về mặt đời sống tinh thần, cũng như khôi phục những giá trị tự do, dân chủ của người phương Tây. Người hướng dẫn Trần Đức Thảo đọc triết học Husserl là Giáo sư Jean Cavaillés cũng tham gia kháng chiến chống phát xít. Tất cả những sự kiện chính trị, xã hội, văn hoá, khoa học trong thời kỳ này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, lập trường và chọn hướng đi sau này của nhà triết học Việt Nam trẻ tuổi Trần Đức Thảo. Sau khi nước Pháp giải phóng năm 1944, Trần Đức Thảo được cử làm báo cáo viên chính trị tại Đại hội Kiều bào Đông Dương ở nước này. Trong Đại hội này, ông đã trình bày cương lĩnh thiết lập nền dân chủ ở Đông Dương. Cũng tại đây, Trần Đức Thảo đã được bầu là Uỷ viên của Tổng Liên đoàn người Đông Dương ở Pháp và phụ trách nghiên cứu những vấn đề chính trị. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Cách mạng Tháng Tám thành công, Trần Đức Thảo tham gia tích cực vào các hoạt động yêu nước nhằm ủng hộ Việt Minh và Chính phủ Hồ Chí Minh. Với tinh thần yêu nước đó, tháng 10/1945, ông và 50 kiều bào ở Pháp bị nhà cầm quyền bắt giam về các tội gọi là “vi phạm an ninh Nhà nước”. Sau khi ra tù, đầu năm 1946, vì những hoạt động yêu nước và tư tưởng chống lại chính sách xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp, Trần Đức Thảo đã bị Giáo sư Emille Bréhier từ chối hướng dẫn luận án tiến sĩ. Trần Đức Thảo - Cuộc đời và sự nghiệp 77 Nhưng vị giáo sư này cũng phải thốt lên về con người không cùng quan điểm: “Ôi, một con người tuyệt diệu, hãy chào anh ta bằng ngả mũ và cúi đầu”. Tuy nhiên, những gì Trần Đức Thảo đã chứng kiến trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, khoa học, văn hoá vào những năm tháng học tập, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn tại Pháp, đặc biệt là 3 tháng nằm trong tù giam đã khiến ông thấm thía nhiều điều, trong đó phải kể đến hướng đi quyết định số phận của mình sau này. Cuối năm 1951, Trần Đức Thảo trở về Việt Nam theo con đường từ Paris - London - Praha - Moskva - Bắc Kinh, rồi đến Tân Trào, bỏ lại sau lưng một nước Pháp với thủ đô Paris tráng lệ với bao nhiêu kỷ niệm, hoài bão, ước mơ, với một tương lai sáng lạn, hứa hẹn cho một tài năng triết học đang bừng sáng. Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ ở Việt Nam, Trần Đức Thảo công tác trong ngành giáo dục. Ông trở thành Giáo sư Đại học ở chiến khu và làm việc tại Văn phòng Tổng Bí thư, dịch các tác phẩm của đồng chí Trường Chinh ra tiếng Pháp. Sau ngày hoà bình lập lại, ông được cử làm Ủy viên Ban Sử - Địa - Văn, (tiền thân của Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam ngày nay), Phó Giám đốc Trường Đại học Sư phạm Văn Khoa, rồi làm Chủ nhiệm khoa Sử và trở thành Giáo sư lịch sử triết học của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong thời kỳ 1958 - 1973, Trần Đức Thảo đã tập trung nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia dịch các tác phẩm đó cho Nhà xuất bản Sự thật (nay là Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật) và trở thành chuyên viên Cao cấp của Nhà xuất bản này. Sơ lược qua quá trình học tập, nghiên cứu, cũng như qua những mốc hoạt động thực tiễn trong những năm tháng ở Pháp và sau này ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy được nguyên do đã làm cho nhà triết học trẻ tuổi Trần Đức Thảo thay đổi hướng nghiên cứu triết học của mình, từ chủ nghĩa duy tâm đến chủ nghĩa hiện sinh và trở về với chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên do Trần Đức Thảo đã từ bỏ cuộc sống ở một đất nước văn minh, giàu có, hứa hẹn một tương lai sáng lạn cho tài năng triết học trẻ như ông đâm chồi nảy lộc để trở về quê hương Việt Nam trong những tháng năm vô cùng khó khăn không chỉ về mặt kinh tế, mà còn cho cả hướng phát triển trong lĩnh vực khoa học, văn hoá, đặc biệt là ngành triết học. Có thể cắt nghĩa trước hết, đó là lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn, là sự căm ghét chính sách xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp trào dâng trong ý thức và tâm hồn của chàng trí thức trẻ Trần Đức Thảo. Đó còn là tư tưởng yêu tự do, độc lập, dân chủ đã sớm nẩy nở trong nhà triết học tưởng chừng như chỉ biết đến một thứ triết học mà thôi. Hơn nữa, trong những năm tháng suy tư, đắm mình vào dòng triết học trừu tượng, tư biện kiểu Hegel, Husserl Trần Đức Thảo đã kịp nhận thấy những hạn chế, ngõ cụt của các học thuyết này khi vận dụng vào cuộc sống thực tiễn đang thay đổi từng ngày. Phải chăng từ đó đã hướng ông đến với chủ nghĩa Mác - Lênin với phép biện chứng duy vật sống động và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nhà triết học trẻ tuổi mong muốn dâng hiến cuộc đời của mình sau này? Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 78 Có thể nói, Trần Đức Thảo là nhà triết học Việt Nam đầu tiên sớm nghiên cứu triết học phương Tây một cách khá đầy đủ, hệ thống và sâu sắc. Sự nghiệp sáng tạo của Trần Đức Thảo để lại không nhiều tác phẩm. Nhưng thông qua những đứa con tinh thần mà ông có được, chúng ta phần nào nhận biết sự tư duy thông minh, kiến thức uyên bác và tư chất triết học bẩm sinh của ông. Từ khi tốt nghiệp Cử nhân triết học đến thời kỳ học và đạt bằng Thạc sĩ, cũng như nghiên cứu sinh tại Trường Sư phạm phố d’Ulm, Trần Đức Thảo đã là một chuyên gia nghiên cứu về Husserl (nhà triết học Đức, người sáng lập Hiện tượng học - một trường phái triết học nổi tiếng ở thế kỷ XX). Tháng 10/1945, Trần Đức Thảo bị nhà cầm quyền thực dân Pháp bắt giam vì tư tưởng chống lại chính sách thực dân. Trong 3 tháng ở tù, Trần Đức Thảo đã dành thời gian rỗi này để kiểm tra lại nhận thức của mình về Hiện tượng học. Theo lời tự thuật của ông, chính hoàn cảnh khách quan khi ông bị tù đày, cùng với sự đối kháng mạnh mẽ giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc, đã hướng ông đến con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Kết quả của sự định hướng này là tác phẩm Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng (xuất bản năm 1951). Tháng 9/1948, Trần Đức Thảo đã cho đăng bài báo về “Hiện tượng học của tinh thần và nội dung hiện thực của nó” trên Tạp chí Les Temps Modernes của Pháp. Theo ông, bài báo đó đã giúp ông giải thoát khỏi quan điểm duy tâm của Husserl và là cái cầu nối đưa ông đi từ Hiện tượng học Hegel đến với chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất về sự nghiệp sáng tạo của Trần Đức Thảo, đó là 5 cuộc đối thoại có ghi tốc ký của ông với Jean-Paul Sartre (triết gia hiện sinh lừng danh của nước Pháp) về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh. Theo J.P.Sartre, chủ nghĩa Mác chỉ có ảnh hưởng trong một chừng mực nào đó đối với những vấn đề xã hội, còn chủ nghĩa hiện sinh mới có giá trị về mặt triết học. Tuy nhiên, Trần Đức Thảo cho rằng, J.P.Sartre không thấy được giá trị của chủ nghĩa Mác về mặt chính trị và lịch sử - xã hội. Hơn nữa, ông ta cũng không hiểu nó một cách nghiêm túc. Theo dư luận chung, kết thúc cuộc đối thoại này ưu thế nghiêng về Trần Đức Thảo. Theo ông, những cuộc đối thoại ấy đã dứt điểm sự đoạn tuyệt của ông với chủ nghĩa hiện sinh. Tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Trần Đức Thảo được Nhà xuất bản Minh Tâm phát hành tháng 8/1951. Tác phẩm này đã đánh dấu sự chuyển biến của ông từ Hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với sự khiêm tốn của mình, Trần Đức Thảo cho rằng, ông mới chỉ đạt tới ngưỡng cửa của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, có thể nói, tác phẩm triết học đầu tiên xuất hiện tại nước ngoài của nhà triết học trẻ tuổi Trần Đức Thảo đã tạo nên sự kiện lớn trong giới triết học Pháp lúc bấy giờ. Theo Bernard và Dorothee Rousset viết trong Từ điển các nhà triết học được Nhà xuất bản Đại học Pháp in năm 1984, thì cuốn sách này của Trần Đức Thảo là “một tác phẩm gây “sửng sốt” mà tính táo bạo trong cách nhìn và sự sáng tỏ trong cách diễn đạt đã nhanh chóng được coi là “kinh điển” Cuốn sách đóng vai Trần Đức Thảo - Cuộc đời và sự nghiệp 79 trò quan trọng trong việc đào luyện nhiều nhà triết học trẻ”. Đặc biệt đối với Trần Đức Thảo thì ít nhất những quan điểm được khẳng định rõ ràng trên phương diện triết học ở trong tác phẩm này đủ đưa ông đến quyết định trở về Việt Nam. Hơn nữa, đây là dịp để Trần Đức Thảo gắn cuộc sống với triết học, thực hiện về mặt lí luận trong cuốn sách của ông. Cuối năm 1951, Trần Đức Thảo trở về Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1958, ông là Giáo sư giảng dạy lịch sử triết học. Năm 1995, những bài giảng này của ông được tập hợp lại thành cuốn Lịch sử tư tưởng trước Mác. Từ năm 1958 đến 1961, Trần Đức Thảo tập trung nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ 1961 đến 1973, ông tham gia dịch các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen cho Nhà xuất bản Sự thật. Đối với báo chí Pháp, Trần Đức Thảo không chỉ là một cộng tác viên khá quen thuộc, mà còn là cây bút sắc sảo. Năm 1965, ông đã cho công bố bài “Hạt nhân duy lý của phép biện chứng Hegel” đăng trên Tạp chí La Pensée (Tư tưởng). Năm 1984, cũng trên Tạp chí này, ông cho đăng bài “Phép biện chứng lôgic trong sự hình thành của Tư bản”. Những bài này được bạn đọc ở nước ngoài hoan nghênh và khen ngợi. Năm 1973, Trần Đức Thảo đã cho ra đời cuốn sách thứ hai cũng có giá trị lý luận cao về phương diện triết học là “Khảo cứu về nguồn gốc ngôn ngữ và nguồn gốc ý thức” do Nhà xuất bản Khoa học xã hội Paris ấn hành. Qua tác phẩm này, ông nghiên cứu nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ để khẳng định luận điểm quan trọng của C. Mác về vai trò của ngôn ngữ và lao động xã hội đối với sự hình thành ý thức, về quan hệ sản xuất; hơn nữa là về sự phản bác lại quan điểm phủ định bản chất con người nói chung. Như vậy, qua cuốn sách này, Trần Đức Thảo đã thực hiện được một bước chuyển từ chủ nghĩa duy vật biện chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phải nói rằng, ảnh hưởng của cuốn sách này trong giới nghiên cứu triết học cũng khá lớn. Ngoài Pháp, một số nhà xuất bản ở các nước khác đã cho dịch và in lại bằng tiếng nước họ. Ngoài ra, 4 trường đại học ở Pháp, Mỹ và Canada đã đưa vào giới thiệu trong các câu lạc bộ học thuật. Năm 1988, Trần Đức Thảo cho xuất bản tác phẩm “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Đây là cuốn sách triết học đầu tiên nói về con người được xuất bản ở Việt Nam và là cuốn sách thứ hai được ông viết bằng tiếng Việt sau cuốn Triết lý đi về đâu? được ra mắt năm 1950. Cuốn sách này cũng đã gây được sự quan tâm đặc biệt trong giới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn bởi một tư duy sâu sắc, nghiêm túc về những vấn đề lí luận có quan hệ đến sự lập luận, lí giải các hiện tượng xã hội trong một giai đoạn lịch sử mới. Trong cuốn sách, bằng lập luận khoa học, ông đã đề cao con người và dành cho nó một vị trí xứng đáng là trung tâm của xã hội. Đồng thời, ông đã phê phán mạnh mẽ “Chủ nghĩa lí luận không có con người”, bác bỏ quan điểm phủ định con người theo nghĩa chung và “quá trình không có chủ thể”. Hơn nữa, ông phê phán kịch liệt những khuynh hướng theo chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội cơ hội, vị kỷ cá nhân, vị kỷ dân tộc Từ đó, ông cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2013 80 khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen mới nhằm giải phóng toàn diện con người. Ngoài ra cuốn sách này được Trần Đức Thảo viết ra nhằm để phản bác lại những ai muốn kết hợp chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa cấu trúc và trên cơ sở đó, ông khẳng định đổi mới là yêu cầu cấp thiết của cách mạng, là phương sách cơ bản để thực hiện một cách có hiệu quả Nghị quyết của Đại hội Đảng khoá VI. Ở đây đã thể hiện tư tưởng biện chứng và tầm suy nghĩ mang tính chiến lược của ông về định hướng cho sự phát triển xã hội Việt Nam; đồng thời, ông mong muốn bảo vệ sự thuần nhất của triết học Mác - Lênin. Cuốn Lịch sử tư tưởng trước Mác của Giáo sư Trần Đức Thảo được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1995. Cuốn sách này là tập bài giảng của ông tại Trường Đại học Sư phạm Văn Khoa và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trong những năm 1955 - 1958. Trong thời kỳ này, các trường đại học ở nước ta, về ngành khoa học xã hội và nhân văn, cơ bản vẫn chưa có giáo trình lịch sử triết học. Vì vậy, cuốn sách của ông ra đời có một ý nghĩa lí luận hết sức to lớn đối với việc nghiên cứu lịch sử triết học nói chung và lịch sử triết học phương Tây trước Mác nói riêng. Trong cuốn sách, Trần Đức Thảo đã lần lượt trình bày và phân tích tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng Trung Hoa cổ đại, Tư tưởng Trung cổ, văn hoá Phục hưng và cải tổ tôn giáo, triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII và triết học Cổ điển Đức với một tư duy sắc sảo và kiến thức uyên bác. Bản thảo cuối cùng mà Giáo sư Trần Đức Thảo đang hoàn thành tại Paris là “Lôgic của thực tại sống động”. Trong tác phẩm này ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư duy đổi mới để phân tích và luận giải tính tất yếu của mọi sự kiện thay đổi một cách nhanh chóng và bất ngờ của hiện thực sống động. Tất cả sự phân tích này đã thể hiện một tư duy sâu sắc và đầy chất trí tuệ. Năm 1992, ông sang Pháp trị bệnh và lấy thêm tư liệu cho công trình mà ông đang thực hiện, nhưng cuốn sách chưa ra đời thì ông lâm bệnh nặng và vĩnh viễn ra đi vào ngày 14/4/1993, để lại phía sau những tư tưởng đang ấp ủ, những công trình dang dở và một sự nghiệp nghiên cứu triết học lớn lao. Có thể nói rằng, quá trình nghiên cứu triết học của Giáo sư Trần Đức Thảo là đi từ Hiện tượng luận của Husserl sang chủ nghĩa Hiện sinh, rồi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng và cuối cùng đạt tới chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ông đã từ khuynh hướng triết học nổi tiếng của thế kỷ XX để đi sâu nghiên cứu triết học Mác - Lênin và đã phát hiện những cơ sở lí luận để giải thích mọi hiện tượng, phương pháp tiếp cận chân lí và vận dụng vào cuộc sống. Không nghi ngờ gì nữa, Giáo sư Trần Đức Thảo là nhà triết học đã tìm hiểu một cách sâu sắc triết học Mác- Lênin và hơn thế nữa ông còn là người ủng hộ và trung thành với triết học đó. Những tác phẩm của ông được đăng trên các tạp chí triết học của Pháp và được dịch ra các tiếng như Đức, Tây Ban Nha, Anh, Hungari, Nhật Bản và được tiếp nhận ở một số trường đại học trên thế giới. Trong lời giới thiệu cuốn “Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ” của ông, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Paris viết rằng, tư tưởng của triết gia Trần Đức Thảo đã ghi dấu ấn quan trọng đến tinh thần của cả thế hệ tri thức sinh viên Pháp những năm 1950. Không phải ngẫu nhiên Trần Đức Thảo - Cuộc đời và sự nghiệp 81 mà trong Từ điển các nhà triết học (do Nhà xuất bản Đại học Pháp in năm 1984), một công trình đồ sộ nhằm giới thiệu thân thế và sự nghiệp các nhà triết học có tên tuổi trên thế giới từ thời kỳ cổ đại đến cuối thế kỷ XX, có những tên tuổi chỉ được ghi dăm ba dòng, nhưng Giáo sư Trần Đức Thảo thì được dành tới ba trang. Từ bỏ cuộc sống phồn hoa, tráng lệ đầy tương lai hứa hẹn cho sự nghiệp khoa học của mình, Trần Đức Thảo đã trở về Tổ quốc Việt Nam để cống hiến cho đất nước, Ông thực sự muốn “làm cho cuộc sống nhất trí với triết học”. Vì vậy, ông đã hoà mình vào cuộc sống đầy khó khăn lúc bấy giờ để tìm hiểu, giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn mà xã hội đặt ra. Giữa triết học kinh viện và cuộc đời thực có một khoảng cách khá lớn. Nhưng Trần Đức Thảo đã biến mình thành nhà triết học nhập thế và thực tế, ông được coi như nhà triết học xuất sắc nhất của Việt Nam thế kỷ XX (ông đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 3 và Huân chương Độc lập hạng Hai). Với thế giới, đặc biệt là Pháp, Giáo sư Trần Đức Thảo được đánh giá như một nhà triết học nổi tiếng. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan, các công trình khoa học của ông còn ít được mọi người biết đến. Vì vậy cần tổ chức công bố và giới thiệu rộng rãi các tác phẩm của ông. _________________ Tài liệu tham khảo 1. Trần Đức Thảo, 2006. Triết gia lữ hành. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Trần Đức Thảo, 1995. Lịch sử tư tưởng trước Marx. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Trần Đức Thảo, 1996. Tìm cội nguồn ngôn ngữ và ý thức. Nxb. Văn hóa thông tin. 4. Trần Đức Thảo, 1989. Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người. Nxb. TP. Hồ Chí Minh. 5. Trần Đức Thảo, 2004. Sự hình thành con người. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Trần Đức Thảo, 2004. Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
- tran_duc_thao_cuoc_doi_va_su_nghiep_triet_hoc.pdf