Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội

 V.I.Lênin là nhà tư tưởng vĩ đại. Di sản của Người vô cùng phong phú; đặc biệt trong

tư tưởng về nhận thức và quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội có nhiều điểm độc đáo, và có ý

nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Theo tư tưởng của V.I.Lênin, nét đặc trưng của quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa

những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là sự định hướng cơ

bản có tính chiến lược cho cách mạng Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới

pdf 8 trang dienloan 9360
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Tư tưởng của V.I.Lênin về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
 43 
Tư tưởng của V.I.Lênin 
về nhận thức và sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
 Nguyễn Hùng Hậu1, Nguyễn Cương2 
Tóm tắt: V.I.Lênin là nhà tư tưởng vĩ đại. Di sản của Người vô cùng phong phú; đặc biệt trong 
tư tưởng về nhận thức và quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội có nhiều điểm độc đáo, và có ý 
nghĩa hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Theo tư tưởng của V.I.Lênin, nét đặc trưng của quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa 
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là sự định hướng cơ 
bản có tính chiến lược cho cách mạng Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới. 
Từ khóa: Nét độc đáo; tư tưởng; nhận thức; chủ nghĩa xã hội; V.I.Lênin. 
Abstract: V.I. Lenin is a great thinker. His heritage is extremely diverse, especially that in 
regard of the thoughts on cognition of and the transitional period towards socialism, including 
views which are matchless and bear extremely important significance to Vietnam. In line with V.I. 
Lenin’s thought, the characteristic of the period in Vietnam is that it is an indirect one, with the by-
pass of the stage of capitalist development, while inheriting achievements that mankind has made 
under the capitalist regime. This is a fundamental and highly strategic orientation for the 
Vietnamese revolution in the time to come. 
Keywords: Matchlessness; ideology; cognition; socialism; V.I. Lenin. 
1. Mở đầu 
V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa C.Mác 
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang 
giai đoạn đế quốc, trong thời kỳ bước đầu xây 
dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga 
Xô viết; Người đã đưa chủ nghĩa Mác phát 
triển lên một giai đoạn mới, giai đoạn Lênin. 
Di sản của Lênin hết sức đa dạng, vô cùng 
phong phú; trong khuôn khổ phạm vi bài này 
tác giả chỉ đề cập đến nét độc đáo trong tư 
tưởng của người về nhận thức và quá độ gián 
tiếp lên chủ nghĩa xã hội. 
2. Nét độc đáo trong tư tưởng của 
V.I.Lênin về nhận thức 
Phát triển những tư tưởng của C.Mác và 
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra ba nguyên 
tắc cơ bản của lý luận nhận thức: thứ nhất, 
thừa nhận sự tồn tại của những sự vật, hiện 
tượng khách quan độc lập với ý thức của 
con người; thứ hai, không có sự khác nhau 
về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó 
(cái không nhận thức được), chỉ có sự khác 
nhau giữa cái được nhận thức và cái chưa 
được nhận thức; thứ ba, nhận thức là một 
quá trình biện chứng. Người còn cho rằng 
thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), thực 
tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn 
triệu lần được in vào ý thức của con người 
bằng những hình tượng lôgíc và con người 
chứng minh bằng thực tiễn của mình sự 
đúng đắn khách quan của những ý niệm, 
khái niệm, tri thức, khoa học của mình.1 
1 Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
ĐT: 0912 859895. Emai: hunghaun@gmail.com 
2 Thạc sĩ, Viện Phát triển kinh tế hợp tác. ĐT: 0978754 318 
Email: cuonghcm25@gmail.com 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 44
Những điểm độc đáo trong tư tưởng về 
nhận thức của Người là ở chỗ, Người cho 
rằng những phạm trù là điểm nút của mạng 
lưới những hiện tượng tự nhiên, chúng giúp 
ta nhận thức và nắm vững được mạng lưới. 
Qua đó ta thấy, nắm được hệ thống phạm 
trù, tức là nắm được những điểm nút trong 
cái lưới bủa vây bắt giới tự nhiên. Như 
chúng ta biết, nét đặc trưng trong nhận thức 
của khoa học là phản ánh thế giới bằng 
những khái niệm, phạm trù. Điều này khác 
với phản ánh của âm nhạc - bằng âm 
thanh, hội họa - bằng màu sắc, đường nét, 
kịch câm - bằng dáng điệu, cử chỉ. Người 
ta còn ví, nếu khoa học là một lâu đài, thì 
những khái niệm, phạm trù như những 
người lính canh giữ lâu đài đó. Muốn vào 
được lâu đài, đầu tiên anh phải qua được 
những người lính này. Như vậy, nắm được 
những khái niệm, phạm trù của một khoa 
học là khâu đầu tiên, quan trọng nhất để đi 
vào khoa học. 
Theo Người, nhận thức là sự phản ánh 
giới tự nhiên bởi con người. Nhưng đó 
không phải là một phản ánh đơn giản, trực 
tiếp, hoàn chỉnh, mà là một quá trình, cả 
một chuỗi những sự trừu tượng, sự cấu 
thành, sự hình thành ra các khái niệm, quy 
luật, và chính các khái niệm, quy luật này 
bao quát một cách có điều kiện, gần đúng 
tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên 
vĩnh viễn vận động và phát triển. Như vậy, 
nhận thức là phản ánh, nhưng phản ánh là 
một quá trình không hề giản đơn mà là cả 
một chuỗi những trừu tượng hình thành nên 
những khái niệm, quy luật gần đúng với 
quy luật trong giới tự nhiên. Qua đó ta thấy, 
giới tự nhiên trong đầu không trùng khít, 
không đồng nhất với giới tự nhiên bên 
ngoài, cái thứ nhất chỉ là phản ánh gần đúng 
cái thứ hai đang vĩnh viễn vận động. Cái 
phản ánh không đồng nhất với cái bị phản 
ánh. Bởi vậy, người nào chấp vào câu chữ, 
e rằng người đó chỉ đuổi theo cái bóng của 
đối tượng, chứ không phải bản thân đối 
tượng, không bao giờ nắm bắt được bản 
chất của sự vật, hiện tượng đang vận động 
của thế giới bên ngoài. 
Trong Bút ký triết học, Lênin cho rằng 
con người không thể nắm bắt được bằng 
phản ánh, bằng miêu tả toàn bộ giới tự 
nhiên một cách đầy đủ, trong tính chỉnh thể 
trực tiếp của nó, mà con người chỉ có thể đi 
gần mãi đến đó, bằng cách tạo ra những 
trừu tượng, những khái niệm, những quy 
luật, một bức tranh khoa học về thế giới. 
Như vậy, Lênin đã đi sâu hơn, phân tích cơ 
chế của sự phản ánh. Lênin luôn nhắc nhở, 
nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận 
của tư duy đến khách thể của giới tự nhiên 
phải được hiểu không phải một cách “chết 
cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận 
động, không mâu thuẫn, mà là trong quá 
trình vĩnh viễn của sự vận động, của sự nảy 
sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu 
thuẫn đó. Mâu thuẫn ở chỗ, sự vật, hiện 
tượng luôn luôn vận động; trong khi đó, 
nhận thức của chúng ta lại đem cố định sự 
vật, hiện tượng đó lại trong thời điểm nhận 
thức. Qua đó ta thấy, nhận thức của chúng 
ta giống như một chiếc máy ảnh, chụp lại 
một hiện tượng, sự vật đang vận động. 
Nhưng nếu không làm như vậy thì chúng ta 
lại không nhận thức được chúng khi chúng 
đang vận động. Từ đây, ta thấy, điểm độc 
đáo hơn nữa ở chỗ, Lênin cho rằng chúng ta 
không thể biểu hiện, thể hiện, đo lường, 
hình dung sự vận động mà không cắt đứt 
tính liên tục, không đơn giản hóa, không 
làm thô lỗ, không tách rời, không làm chết 
cứng cái đang sống. Việc tư duy (không 
những tư duy mà cả cảm giác) hình dung sự 
Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Cương 
 45 
vận động (không những sự vận động mà tất 
cả các khái niệm) bao giờ cũng làm thô lỗ, 
làm chết cứng. Lênin khẳng định, đấy chính 
là bản chất của phép biện chứng. Đây là 
điểm vô cùng độc đáo trong tư tưởng của 
V.I.Lênin về nhận thức. Để nhận thức một 
sự vật hiện tượng nào đó, chúng ta phải cố 
định sự vật hiện tượng đó lại, bởi vì nếu để 
nó vận động, vừa là nó vừa không phải là 
nó thì chúng ta không thể nhận thức được. 
Cố định lại, theo nghĩa nào đó, chúng ta đã 
làm đơn giản hóa, làm chết cứng cái đang 
sống, làm thô lỗ, theo từ của V.I.Lênin. 
Nhưng nếu không làm như vậy, thì khoa 
học lại không thể tiến lên phía trước. Đây 
cũng là điểm đặc thù đồng thời cũng là hạn 
chế của khoa học làm cho nó khác với các 
lĩnh vực khác như nghệ thuật, âm nhạc. 
Nhưng khi đã nhận thức được, cứ cho là 
nhận thức đúng ở thời điểm đó, thì sự vật, 
hiện tượng lại vận động sang thời điểm 
khác. Như vậy, nhận thức là một quá trình 
đuổi theo nắm bắt sự vật, hiện tượng và quá 
trình này là vô hạn. Thực chất của mâu 
thuẫn này thể hiện ở việc cái động đi nắm 
bắt, phản ánh cái động. Để khắc phục mâu 
thuẫn này, nhiều nhà triết học phương 
Đông và triết học Phật giáo chủ trương lấy 
tĩnh chế động, “dĩ bất biến ứng vạn biến”. 
Cụ thể các nhà Thiền học đưa ra chủ 
trương “dĩ tâm truyền tâm”. Nhưng đây lại 
là một lĩnh vực bí ẩn, khó hiểu đối với đại 
đa số nhiều người. 
Để giải quyết mâu thuẫn này, V.I.Lênin 
cho rằng, tư duy khi tiến lên từ cái cụ thể 
đến cái trừu tượng, nếu nó đúng, thì không 
xa rời chân lý, mà đến gần chân lý. Những 
sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự 
nhiên, sự trừu tượng về giá trị tóm lại, tất 
cả những sự trừu tượng khoa học (đúng 
đắn, nghiêm túc, không tuỳ tiện) phản ánh 
giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, 
đầy đủ hơn. Từ trực quan sinh động đến tư 
duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến 
thực tiễn - đó là con đường biện chứng của 
sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực 
tại khách quan. 
Trong Bút ký triết học, Lênin cũng cảnh 
báo rằng tính linh hoạt của các khái niệm; 
tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ 
quan, đó là chủ nghĩa chiết trung và ngụy 
biện; tính linh hoạt áp dụng một cách khách 
quan, nghĩa là phản ánh tính toàn diện của 
quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là 
sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh 
viễn của thế giới. 
3. Nét độc đáo trong tư tưởng của V.I.Lênin 
về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội 
Kế thừa những luận điểm của C.Mác, 
Ph.Ăngghen, Lênin cho rằng thời kỳ quá độ 
có những đặc điểm sau: 
Thứ nhất, thời kỳ quá độ là thời kỳ do 
nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo 
nên, thời kỳ đan xen, thâm nhập vào nhau 
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. 
Chẳng hạn, về kinh tế, đến năm 1921, khi 
đưa ra Chính sách kinh tế mới, Lênin đã 
nhận ra 5 thành phần kinh tế trong thời kỳ 
quá độ, đó là: kinh tế tư gia trưởng, kinh tế 
hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế nhà 
nước tư bản chủ nghĩa, kinh tế xã 
hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, đó là thời kỳ sự phát triển của 
cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át 
những mầm mống của cái mới, trật tự mới. 
Thứ ba, đó là thời kỳ phát triển tính tự 
phát tiểu tư sản - kẻ thù giấu mặt hết sức 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 46
nguy hiểm và còn nguy hiểm hơn cả bọn 
phản cách mạng công khai. 
Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, hết sức khó 
khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều lần thử 
nghiệm để rút kinh nghiệm, để có hướng đi 
đúng đắn; trong quá trình thử nghiệm ấy, 
theo C.Mác, có thể phải trả giá cho những 
sai lầm nghiêm trọng. 
Vậy quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ 
nghĩa cộng sản có đặc điểm gì? Đặc điểm 
nổi bật nhất được Lênin chỉ ra trên khía 
cạnh góc độ dân chủ. Nếu như chế độ dân 
chủ trong xã hội tư bản, vẫn như trước kia, 
vẫn chỉ là dân chủ cho một thiểu số ít 
người, dân chủ cho giai cấp có của, một thứ 
dân chủ bó hẹp, chà đạp lên người nghèo, 
thì với chuyên chính vô sản, lần đầu tiên, 
chế độ dân chủ trở thành chế độ dân chủ 
cho người nghèo, cho nhân dân. 
Chính cái xã hội vừa thoát thai từ chủ 
nghĩa tư bản, theo C.Mác, không phải là 
một xã hội cộng sản đã phát triển trên 
những cơ sở của riêng nó, mà về mọi 
phương diện, xã hội ấy còn mang những 
dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã đẻ ra nó, đó 
là xã hội ở giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp 
của chủ nghĩa cộng sản, xã hội xã hội chủ 
nghĩa. Cho nên trong giai đoạn này chưa 
thể thực hiện được công bằng và bình đẳng, 
đặc biệt về quyền lợi, theo C.Mác, không 
nên bình đẳng, mà nên bất bình đẳng, bởi 
lẽ, quyền lợi không bao giờ có thể cao hơn 
trạng thái kinh tế của xã hội và cao hơn 
trình độ văn minh của xã hội tương ứng với 
trạng thái kinh tế ấy. 
C.Mác, Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng 
nếu như giai cấp vô sản có lật đổ nền thống 
trị chính trị của giai cấp tư sản thì thắng lợi 
của nó cũng sẽ chỉ là nhất thời, khi nào mà 
trong tiến trình lịch sử, trong sự vận động 
của lịch sử, còn chưa tạo ra được những 
điều kiện vật chất làm cho việc thủ tiêu 
phương thức sản xuất tư bản, và do đó, cả 
việc lật đổ hoàn toàn nền thống trị chính trị 
của giai cấp tư sản, trở thành tất yếu. Trong 
tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã 
hội từ không tưởng đến khoa học (1880), 
Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng mục đích của 
cách mạng vô sản là giải quyết mâu thuẫn 
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 
tư bản chủ nghĩa, là giải thoát những tư liệu 
sản xuất khỏi tính chất tư bản chủ nghĩa và 
để cho tính chất xã hội của chúng được 
hoàn toàn tự do phát triển. 
Theo Lênin, tính đặc thù rõ nhất ở chỗ, 
xã hội càng ít (kém) phát triển, thì thời kỳ 
quá độ càng dài, khi quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội càng gặp nhiều khó khăn, phức tạp, 
càng phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ 
trung gian, nhiều bước thử thách. C.Mác, 
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin còn đưa ra quan 
điểm về khả năng quá độ rút ngắn, không 
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, 
những nước tư bản phát triển cao, khi mà 
quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích trói 
buộc, kìm hãm, mâu thuẫn đến cao độ với 
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 
thì sớm hay muộn cũng sẽ xảy ra cách 
mạng xã hội xã hội chủ nghĩa; phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa lỗi thời nhất định 
phải nhường chỗ cho phương thức sản xuất 
cao hơn, tiến bộ hơn, xã hội tư bản nhất 
định sẽ phải chuyển biến thành xã hội xã 
hội chủ nghĩa. Đó là quy luật tất yếu trong 
sự phát triển của xã hội loài người. Do vậy, 
các nước tư bản phát triển này có thể trực 
tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội trải qua một 
thời kỳ quá độ như C.Mác đã chỉ ra trong 
Phê phán cương lĩnh Gôta. Tuy nhiên, 
trong lịch sử nhân loại, sự phát triển của các 
Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Cương 
 47 
nước, thậm chí ngay trong các nước tư bản 
là không đồng đều; bên cạnh những nước 
có trình độ phát triển cao lại có những nước 
phát triển rất thấp, thậm chí còn rất lạc hậu. 
Vậy, xuất hiện tình huống là những nước 
chưa qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa có 
nhất thiết phải phát triển lên tư bản chủ 
nghĩa và khi chín muồi mới đi lên chủ 
nghĩa xã hội hay không? Có thể rút ngắn 
hay không qua chế độ tư bản chủ nghĩa 
không? Nếu có thì cần những điều kiện gì? 
Và quá trình này có phải là quá trình lịch 
sử tự nhiên hay không? 
Khi phân tích, nghiên cứu chủ nghĩa tư 
bản, C.Mác, Ph.Ăngghen đi đến phán đoán 
cho rằng cách mạng vô sản có tất cả những 
triệu chứng sắp nổ ra ở tất cả các nước tư 
bản tiên tiến lúc bấy giờ. Hai ông chưa dự 
kiến hết tính phức tạp của cuộc cách mạng 
thế giới, đơn giản cho rằng do tác động của 
đại công nghiệp đã tạo nên thị trường thế 
giới, đã san bằng sự phát triển xã hội ở tất 
cả các nước văn minh, vì vậy cuộc cách 
mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ là cuộc cách 
mạng có tính chất toàn cầu và vì vậy nó sẽ 
có một vũ đài toàn thế giới. Năm 1895, 
Ph.Ăngghen cho rằng cả ông và C.Mác đã 
không thấy trạng thái phát triển kinh tế trên 
lục địa lúc bấy giờ còn rất lâu mới chín 
muồi để xóa bỏ phương thức tư bản chủ 
nghĩa. Mặt khác, khi nghiên cứu về xã hội 
phương Đông, nhất là công xã nông thôn 
Nga, hai ông đã dự đoán về khả năng phát 
triển không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, 
bởi lẽ công xã nông thôn Nga ít nhiều đã 
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây 
dựng xã hội mới. Vì vậy, con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội của nước Nga không 
giống như con đường của các nước tư bản 
phát triển, mà sẽ là một con đường khác, 
trong đó lợi dụng hình thức sở hữu công xã 
để trong những điều kiện nhất định chuyển 
lên chủ nghĩa xã hội không qua sự phát 
triển tư bản chủ nghĩa. Trong thư gửi ban 
biên tập tờ Ký sự nước nhà, C.Mác cho 
rằng nếu nước Nga cứ tiếp tục đi theo con 
đường mà nó theo đuổi từ năm 1861, tức 
con đường phát triển tư bản chủ nghĩa thì 
nó sẽ bỏ lỡ mất một cơ hội tốt đẹp nhất (tức 
đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội) mà lịch sử đã 
từng dành cho một dân tộc nào đó và nó sẽ 
chịu tất cả mọi tai họa khủng khiếp của chế 
độ tư bản. Trong lời tựa viết cho bản tiếng 
Nga xuất bản năm 1882 của Tuyên ngôn 
Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: 
“Bây giờ, thử hỏi công xã nông thôn Nga, 
cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ 
công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể 
chuyển thẳng sang hình thức cao, cộng sản 
chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất không, hay 
là trước hết, nó cũng phải trải qua quá trình 
tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình 
phát triển lịch sử của phương Tây? Ngày 
nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là 
thế này: nếu cách mạng Nga báo hiệu một 
cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và 
nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho 
nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga 
hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự 
tiến triển cộng sản chủ nghĩa” [1, tr.434]. 
 Như vậy, không dùng từ “bỏ qua”, “rút 
ngắn”, nhưng ý hướng tư tưởng của hai ông 
về vấn đề này đã khá rõ. Trong lời tựa viết 
cho lần xuất bản thứ nhất bộ Tư bản, C.Mác 
viết: “Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện 
được quy luật tự nhiên của sự vận động của 
nó, mà mục đích cuối cùng của tác phẩm 
này là tìm ra qui luật vận động kinh tế của 
xã hội hiện đại, cũng không thể nào nhảy 
qua các giai đọan phát triển tự nhiên hay 
dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn 
đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 48
bớt được những cơn đau đẻ” [2, tr.199]. Do 
đó, trong hai từ trên, thì C.Mác nghiêng về 
tư tưởng “rút ngắn”. Điều này được chứng 
minh thêm trong tác phẩm Sách báo của 
giới lưu vong với quan điểm của 
Ph.Ăngghen cho rằng nước Nga và những 
nước vừa bước vào con đường tư bản chủ 
nghĩa có thể rút ngắn một cách đáng kể quá 
trình phát triển của mình với điều kiện ở 
Tây Âu một cuộc cách mạng vô sản thắng 
lợi đã được thực hiện, một tấm gương về sự 
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; chỉ 
khi nào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị 
đánh bại tại quê hương của nó, chỉ khi nào 
những nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà 
biết được rằng việc đó đã được tiến hành 
như thế nào, những lực lượng sản xuất công 
nghiệp hiện đại, với tư cách là sở hữu công 
cộng, đã được sử dụng như thế nào để phục 
vụ toàn thể xã hội, thì những nước lạc hậu 
ấy mới có thể bước vào con đường phát 
triển rút ngắn. Như thế thắng lợi của những 
nước ấy sẽ được bảo đảm. Điều đó không 
chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các 
nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền 
tư bản chủ nghĩa. Như vậy, ngoài con 
đường lịch sử - tự nhiên tuần tự qua tất cả 
các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và 
Ph.Ăngghen đã dự đoán về con đường phát 
triển rút ngắn đối với các nước tiền tư bản 
với những điều kiện nhất định. 
Nếu C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên tư 
tưởng về con đường rút ngắn, thì V.I.Lênin 
cho rằng với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản 
các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể 
tiến tới chế độ Xô viết và qua những giai 
đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa 
cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát 
triển tư bản chủ nghĩa. 
Theo V.I.Lênin, hoàn toàn không còn 
nghi ngờ gì nữa rằng những bước quá độ từ 
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội có thể 
có những hình thức khác nhau, tùy thuộc ở 
chỗ quan hệ đại tư bản chiếm ưu thế hay 
nền kinh tế nhỏ chiếm ưu thế. Từ đó, 
V.I.Lênin đưa ra hai hình thức quá độ: quá 
độ trực tiếp đối với những nước tư bản phát 
triển; quá độ gián tiếp đối với những nước 
lạc hậu, những nước tiền tư bản, trong đó 
có nước Nga, bằng cách thông qua các 
bước, mắt xích trung gian. 
Quá độ gián tiếp, theo V.I.Lênin, là rất 
phức tạp, lâu dài. Từ năm 1921, với chính 
sách kinh tế mới, V.I.Lênin chủ trương 
không đập tan cái cơ cấu kinh tế và xã hội 
cũ, mà là chấn hưng bằng cách cố gắng nắm 
vững một cách thận trọng, từng bước, hoặc 
bằng cách nhà nước điều tiết trong chừng 
mực làm cho chúng sẽ được phục hồi trở lại 
nhằm phát triển đến mức tối đa lực lượng 
sản xuất. Chính chính sách kinh tế mới đã 
đi theo hướng này. 
V.I.Lênin cho rằng chúng ta không thể 
bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, mà phải 
trải qua những bước trung gian, quá độ; 
trong đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con 
đường, cách thức, công cụ, phương tiện để 
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ 
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. 
Nét đặc thù nhất mà những nước tiền tư 
bản, những nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa 
xã hội là thiếu những cái mà chủ nghĩa tư 
bản gần ba thế kỷ phát triển đã tạo ra như 
khoa học công nghệ, mặt bằng dân trí, ý 
thức pháp luật, cách tổ chức quản lý sản 
xuất Do đó, trong lời tựa viết cho quyển 
1 bộ Tư bản, bản tiếng Đức xuất bản lần thứ 
nhất, C.Mác cho rằng: trong tất cả các lĩnh 
vực khác thì cũng giống như các nước khác 
ở lục địa Tây Âu, chúng ta (Đức) đau khổ 
Nguyễn Hùng Hậu, Nguyễn Cương 
 49 
không những vì sự phát triển của nền sản 
xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì 
nó phát triển chưa đầy đủ. V.I.Lênin trong 
bài Đệ tam quốc tế và địa vị của nó trong 
lịch sử cho rằng so với các nước tiên tiến, 
những nước tư bản phát triển, thì đối với 
nước Nga, bắt đầu cuộc đại cách mạng vô 
sản là một điều có dễ dàng hơn, nhưng tiếp 
tục cuộc cách mạng đó và đưa nó đến thắng 
lợi cuối cùng, lại là một điều khó khăn hơn. 
V.I.Lênin đã đưa ra sáu lý do để chứng 
minh cho nhận định trên. 
Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng với 
những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa 
cộng sản xâm nhập vào Châu Á dễ dàng 
hơn Châu Âu. Xâm nhập dễ dàng hơn, 
nhưng xây dựng thành công lại khó khăn 
hơn. Đó là nét đặc thù nhất đối với những 
nước trải qua bước quá độ gián tiếp như 
Việt Nam và Nga. Trong các Văn kiện Đại 
hội Đảng gần đây đã chỉ ra nhận thức về 
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Dĩ 
nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội và xây 
dựng thành công chủ nghĩa xã hội là vấn 
đề khác nhau, mặc dù chúng liên hệ mật 
thiết với nhau. 
Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa ở Việt Nam là bỏ qua “gián tiếp”, là 
“bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của 
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng 
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa 
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được 
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là 
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh 
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế 
hiện đại” [3, tr.84]. Như vậy, bỏ qua chế độ 
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam chỉ là bỏ qua 
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản 
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ 
nghĩa; còn những cái không thống trị mà có 
lợi cho ta trong quá trình phát triển, những 
thành tựu đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, 
đặc biệt là khoa học, công nghệ thì chúng ta 
phải tiếp thu, kế thừa để phát triển nhanh 
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế 
hiện đại. Qua đó ta thấy, phép biện chứng 
giúp chúng ta nhận ra trong bỏ qua có cái 
không bỏ qua, có cái phải tiếp thu, kế thừa, 
có cái phải phát triển rút ngắn; chứ không 
thể bỏ qua toàn bộ, không thể phủ định sạch 
trơn những tiến bộ của nhân loại đã đạt 
được dưới chủ nghĩa tư bản. 
4. Kết luận 
Tư tưởng về nhận thức cũng như tư 
tưởng về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã 
hội của V.I.Lênin là những tư tưởng hết sức 
độc đáo trên bình diện lý luận cũng như 
thực tiễn. Theo Lênin, nhận thức là một quá 
trình vô hạn đi dần tới chân lý. Mặt khác, 
cũng theo tư tưởng của Lênin ta thấy rõ 
được nét đặc trưng của quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián 
tiếp, cụ thể là bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa, nhưng kế thừa những thành tựu mà 
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản 
chủ nghĩa. Đây là sự định hướng có tính 
chiến lược cho cách mạng Việt Nam hiện 
nay và trong thời gian tới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.19, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (2005), Tuyển tập, t.3, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 50

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_v_i_lenin_ve_nhan_thuc_va_su_qua_do_len_chu_ngh.pdf