Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ
Bài báo khái quát những tư tưởng chính của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ với tính
cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ một chế độ chính trị - chế độ dân chủ; là một giá trị
của văn minh nhân loại - kết quả của sự phát triển lịch sử; là một phương thức tồn tại của xã hội
hiện đại. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc nghiên cứu lý luận về dân chủ và giá trị của dân chủ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về dân chủ
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 97 MỘT SỐ CHỈ DẪN CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CHỦ NGHĨA MÁC VỀ DÂN CHỦ Đồng Văn Quân* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Bài báo khái quát những tư tưởng chính của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ một chế độ chính trị - chế độ dân chủ; là một giá trị của văn minh nhân loại - kết quả của sự phát triển lịch sử; là một phương thức tồn tại của xã hội hiện đại. Những chỉ dẫn của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận về dân chủ và giá trị của dân chủ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Từ khóa: dân chủ, chính trị, văn minh, hiện đại, giá trị Với lý tưởng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn coi dân chủ vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu và động lực của các phong trào cách mạng. Do đó, tư tưởng dân chủ là một trong những cống hiến quan trọng về mặt lý luận của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin.* Các nhà Kinh điển của chủ nghĩa Mác hiểu khái niệm dân chủ trước hết với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ nhà nước. Chế độ dân chủ được hiểu là chế độ nhà nước mà trong đó nhân dân là người nắm quyền lực (theo nghĩa: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân). Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen viết năm 1843, C.Mác đã chỉ ra rằng bản chất của chế độ dân chủ là nhà nước được thể hiện ra như là một trong những tính quy định của nhân dân; rằng chế độ nhà nước đó ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta (1875) C. Mác cũng chỉ rõ dân chủ là chính quyền của nhân dân. Ph.Ăngghen đã không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ vì đó chưa phải là một chế độ chính trị, mặc dù ông đã trích dẫn những câu rất đẹp đẽ của Morgan về chế độ này: “Toàn thể các thành viên của thị tộc đều * Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân ngang nhau - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những đặc quyền, ưu tiên nào cả; họ kết thành một tập thể nhân ái, gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc” [8,136]. Ông gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”. Sau này, V.I. Lênin đã khẳng định lại luận điểm của Ăngghen, coi dân chủ là một chế độ chính trị: “Trong những nhận định thông thường về nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm mà Ph. Ăngghen đã căn dặn phải đề phòng. Sai lầm ấy là: người ta luôn luôn quên rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và nhà nước tiêu vong cũng là chế dộ dân chủ tiêu vong” [1, 101]. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ chỉ thực sự xuất hiện dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, mặc dù một số yếu tố dân chủ đã có từ thời nguyên thuỷ. Khi giải thích về hội nghị thị tộc, Ph. Ăngghen đã sử dụng thuật ngữ dân chủ nhưng chỉ theo nghĩa so sánh để giúp chúng ta hình dung về cơ chế hoạt động của hội nghị này mà thôi. Ông nói: “Thị tộc có một hội đồng, tức hội đồng dân chủ của toàn thể các thành viên của thị tộc, trai cũng như gái, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau” [8, 136]. Chỉ khi bàn về nhà nước Aten, khái niệm dân chủ mới được Ph. Ăngghen sử dụng theo đúng nghĩa của nó: “Không phải chế độ Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 98 dân chủ đã làm Aten sụp đổ mà chính là chế độ nô lệ, tức là cái đã làm cho lao động của người công dân bị khinh thị - đã làm cho Aten sụp đổ” [8,179]. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp cận khái niệm dân chủ, lúc đầu từ lập trường dân chủ cách mạng, sau đó chuyển dần sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Các ông đã dần làm rõ bản chất giai cấp của dân chủ, chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế của dân chủ tư sản, qua đó khẳng định sự sụp đổ tất yếu của nền dân chủ tư sản và sự thay thế nó bằng một nền dân chủ mới - dân chủ vô sản. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng hạn chế lớn nhất của dân chủ tư sản là nó bảo vệ cho chế độ sở hữu tư nhân, và do đó bảo vệ cho phe thiểu số. Vì vậy, giai cấp vô sản cần phải đập tan cơ sở kinh tế của dân chủ tư sản là chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu: “Đối với giai cấp vô sản, chế độ dân chủ sẽ trở nên hoàn toàn vô ích nếu nó không được dùng ngay lập tức làm phương tiện để thi hành những biện pháp rộng rãi trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu và bảo đảm sự tồn tại của giai cấp vô sản” [6, 470]. Giai cấp vô sản, để trở thành “giai cấp thống trị”, cần phải làm cách mạng vô sản, phải “giành lấy dân chủ”” [6, 626]. Theo C. Mác, Ph. Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ vô sản, mới làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của mình. Để đạt được điều đó giai cấp vô sản cần tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, nhờ đó “nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị của giai cấp vô sản. Muốn thế, có lẽ cần phải có một cuộc đấu tranh mới nữa, song cuộc đấu tranh mới đó nhất định sẽ kết thúc bằng thắng lợi của giai cấp vô sản” [6, 469-470]. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra kiểu mẫu của dân chủ vô sản chính là Công xã Pa-ri, một hình thức tổ chức nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo – một nhà nước của dân, do dân và vì dân – một nhà nước đã “loại bỏ toàn bộ hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng những đầy tớ luôn luôn có thể bị bãi miễn; thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng một trách nhiệm thực sự, vì những người được uỷ nhiệm này luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân” [7, 719]. Ở đó mọi đặc quyền, đặc lợi đều bị xoá bỏ, quyền lực thực sự đều được chuyển giao vào tay nhân dân: “Chức vị xã hội không còn là sở hữu riêng của bọn bộ hạ của chính phủ trung ương nữa. Không những việc quản lý thành thị mà còn tất cả quyền định đoạt xưa kia thuộc nhà nước, đều chuyển vào tay Công xã” [7, 449-450]. Ngoài nội dung chính trị, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, dân chủ còn luôn gắn liền với khát vọng tự do, bình đẳng, công bằng, bắc ái của con người bởi vì vấn đề dân chủ, xét đến cùng là vấn đề về vai trò của con người, chủ quyền của con người và giải phóng con người để đi đến tự do, bình đẳng cho mỗi cá nhân. Cho nên C. Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hoá. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: Không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [5, 350]. Trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản do hai ông tham gia soạn thảo, vấn đề bình đẳng giữa các thành viên của Liên đoàn được xem như một vấn đề có tính nguyên tắc: “Tất cả các hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng, họ là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau như anh em” [6, 733]. Khi xác định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng chỉ rõ: “Mỗi hội viên của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế đều có quyền tham gia bầu cử đại biểu dự đại hội của toàn Hội Liên hiệp và có quyền được bầu làm đại biểu... Mỗi chi bộ không kể số lượng hội viên ra sao đều có quyền cử một đại biểu dự đại hội... Mỗi đại biểu chỉ có một phiếu ở đại hội... Tất cả những vấn đề về nguyên tắc đều được đưa ra biểu quyết có ghi tên...” [7, 587-588]. Khát vọng dân chủ, tự do, bình đẳng chỉ thực sự đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản, đó là Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 99 “Một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa, sẽ làm cho các thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình. Đồng thời các giai cấp khác nhau nhất định cũng sẽ không còn nữa” [6, 475]. Tuy không phải là những người đầu tiên bàn về dân chủ và nêu lên ước vọng về một xã hội dân chủ nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen, lần đầu tiên chỉ ra bản chất giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân chủ tư sản, từ đó tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới – dân chủ vô sản. Con đường đó chỉ có thể là cách mạng vô sản. V.I. Lênin, trên cơ sở kế thừa di sản của C. Mác và Ph. Ăngghen, đã có công rất lớn trong việc làm rõ bản chất giai cấp của dân chủ, chỉ ra sự khác biệt về nguyên tắc giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, qua đó đề xuất những nguyên tắc, cách thức, con đường để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin, thực chất của dân chủ là quyền làm chủ phải thuộc về tay nhân dân, nhân dân phải được làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội - từ kinh tế đến chính trị, xã hội. Kế thừa quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng tiếp cận khái niệm dân chủ từ góc độ chính trị. Ông cho rằng: “Dân chủ là một phạm trù thuộc riêng lĩnh vực chính trị” [4, 258]. Ông trích dẫn lời của Ph. Ăngghen cho rằng nhà nước tiêu vong cũng có nghĩa là dân chủ tiêu vong, cho nên dân chủ trước hết là một hình thức nhà nước: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước” [1, 123]. Ở đây, V.I. Lênin cũng đã gắn vấn đề dân chủ với khát vọng và quyền con người về tự do, bình đẳng và công bằng xã hội. V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh bản chất giai cấp của dân chủ, cho rằng không có dân chủ nói chung, dân chủ “thuần tuý”, mà là dân chủ cho giai cấp nào. Ông chỉ ra rằng bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử, dù là chế độ dân chủ hoàn thiện nhất, cũng là nền dân chủ cho bọn giàu có. Tuy luôn rêu rao cái gọi là dân chủ, tự do, bình đẳng nhưng nền dân chủ tư sản vẫn tìm cách loại bỏ hết quần chúng lao động ra khỏi bộ máy nhà nước của nó. Để khẳng định quan điểm này, V.I. Lênin đã dẫn lại tư tưởng của C. Mác về dân chủ tư sản: “Cái mà C. Mác đã đấu tranh chống lại nhiều hơn hết trong suốt cuộc đời ông, chính là những ảo tưởng dân chủ tiểu tư sản. Cái mà ông chế giễu nhiều nhất, chính là những câu rỗng tuếch về tự do và bình đẳng, khi những câu đó che lấp cái tự do chết đói của công nhân, hoặc cái bình đẳng giữa một người bán sức lao động của mình với tên tư sản là kẻ mua một cách tự do và hoàn toàn bình đẳng sức lao động ấy trên thị trường gọi là thị trường tự do” [3, 222]. So sánh với các kiểu nhà nước đã có trong lịch sử, V.I. Lênin chỉ ra rằng, chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến vĩ đại vì nó đã đem lại nhiều quyền dân chủ, tự do, bình đẳng hơn cho con người, trong đó có người lao động. Tuy nhiên dân chủ tư sản cũng không thể thoát ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một nền dân chủ cho thiểu số, dân chủ cho bọn thống trị, bóc lột. Ông nói: “Chế độ dân chủ tư sản, tuy là một bước tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là - và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với người nghèo” [2, 305]. Ngay những hình thức nhà nước tư sản được coi là tiến bộ nhất là chế độ đại nghị hay chế độ cộng hoà dân chủ thì cũng chỉ là một công cụ để tư bản bóc lột lao động làm thuê: “Chúng ta ủng hộ chế độ cộng hoà dân chủ vì nó là hình thức nhà nước tốt nhất cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng ta không được quên rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân dân ngay cả trong nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất” [1, 25]. Để khắc phục những hạn chế của dân chủ tư sản, tạo dựng một xã hội dân chủ thực sự, giai Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 100 cấp vô sản phải tiết hành đấu tranh để “giành lấy dân chủ” [6, 626]. Cuộc đấu tranh này, lúc đầu được thực hiện trong khuôn khổ xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng tất yếu và cuối cùng phải đi đến một cuộc cách mạng XHCN để xoá bỏ nền dân chủ tư sản, thiết lập nền dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bằng kinh nghiệm lịch sử của công xã Pa-ri và chính quyền xô-viết, V.I. Lênin đã khẳng định: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần” [2, 312-313]. Về bản chất của chế độ dân chủ vô sản, V.I. Lênin chỉ ra rằng, nó là nền dân chủ của số đông, dân chủ của người nghèo. Để đạt được nền dân chủ này giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải giành được chính quyền nhà nước về tay mình, sử dụng chính quyền để xây dựng các thiết chế kinh tế, chính trị xã hội cho mình. Chỉ khi đó quần chúng lao động mới thực sự là người chủ. Do đó, nếu như dân chủ tư sản là dân chủ cho thiểu số những kẻ thống trị, bóc lột thì “dân chủ vô sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số, vì lợi ích của đa số”; dân chủ vô sản là “chế độ dân chủ cho người nghèo, chứ không phải chế độ dân chủ cho bọn giàu”; chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ mở rộng “trên quy mô lịch sử toàn thế giới, làm cho chế độ đó từ chỗ là một sự dối trá nay trở thành sự thật, đấy là giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của tư bản” [1, 842]. Tính giai cấp của chế độ dân chủ bị quy định bởi cơ sở kinh tế mà từ đó nó được xây dựng nên. Các nền dân chủ trước đây (trong đó có dân chủ tư sản) được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất, cho nên chỉ có giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất mới có quyền làm chủ thực sự trong lĩnh vực kinh tế. V.I. Lênin khẳng định: “Bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong xã hội nhất định quy định” [4, 345]. Ai thống trị về kinh tế thì kẻ đó cũng sẽ thống trị về chính trị, tư tưởng. Do đó, quyền dân chủ trong xã hội chỉ thực sự dành cho giới chủ. Để xây dựng nền dân chủ mới, giai cấp vô sản tất yếu phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất, nhờ đó mà quần chúng nhân dân mới thực sự trở thành người chủ của đất nước, thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình. Chỉ có chế độ công hữu mới đảm bảo được “quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, nghĩa là lao động ngang nhau, tiền công ngang nhau” [1, 122]. Cũng chỉ có chế độ công hữu mới đảm bảo cho tất cả đều tham gia quản lý, tham gia kiểm soát việc sản xuất và phân phối lao động [1, 125]. Chính vì vậy, ngay sau khi cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công, đặc biệt là khi tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN, V.I. Lênin đã kêu gọi phải tiến hành công hữu hoá công xưởng, nhà máy và hợp tác hoá nông nghiệp. Ông chỉ rõ: “Thực chất của chủ nghĩa bôn-sê-vích, của chính quyền xô-viết là ở chỗ bóc trần sự lừa bịp và giả dối của nền dân chủ tư sản, xoá bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy và trao toàn bộ chính quyền nhà nước vào tay quần chúng lao động và bị áp bức. Chính quần chúng đó là người nắm chính trị trong tay, nghĩa là đảm đương công cuộc xây dựng xã hội mới” [3, 463]. Để xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa V.I. Lênin đã đề xuất một loạt những nguyên tắc và giải pháp quan trọng như chế độ bầu cử dân chủ, chế độ kiểm tra, giám sát dân chủ, dân chủ trong Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ. Những chỉ dẫn của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin về dân chủ vẫn giữ nguyên giá trị đối với cách mạng nước ta cho đến tận ngày nay. Trong suốt quá trình cách mạng Đảng ta luôn coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Trong thời kỳ đổi mới bài học lớn của Đảng là phải lấy dân làm gốc, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc vận dụng những chỉ dẫn trên góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu chung của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 97 - 101 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. V.I.Lê nin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát x cơ va. [2]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Mát x cơ va. [3]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mát x cơ va. [4]. V.I.Lê nin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mát x cơ va. [5]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb ST , Hà Nội. [6]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, HN. [7]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 17, Nxb CTQG, HN. [8]. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, HN. SUMMARY CLASSIC SCHOLARS’ INSTRUCTIONS IN DEMOCRACY OF MARXISM Dong Van Quan* College of Education – TNU The article generalizes main thoughts of Karl Marx, Ph. Angel and V.I.Lenin on democracy as a concept of politics, used to mean a political regime – a democratic regime, a value of mankind civilization – a result of history development; an existing mode of modern society. Their instructions are sensibly important to research on the argument of democracy and its value to the cause of building socialism in our country nowadays. Key words: democracy, politics, civilization, modern, value Ngày nhận bài: 02/10/2012, ngày phản biện: 11/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012 * Tel: 0912 021314, Email: quandongvan@gmail.com
File đính kèm:
- mot_so_chi_dan_cua_cac_nha_kinh_dien_chu_nghia_mac_ve_dan_ch.pdf