Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm “zarathustra đã nói như thế” của friedrich wilhelm nietzsche

Trong nghiên cứu tôn giáo, có nhiều cách tiếp cận

cái linh thiêng (le Sacré). Có những quan điểm của các học giả

trên thế giới phân tích và phê phán biểu hiện đối với cái linh thiêng

của các tôn giáo khác nhau. Tác phẩm “Zarathustra đã nói như

thế” của nhà tư tưởng nổi tiếng người Đức Friedrich Wilhelm

Nietzsche là một cách như vậy. Do điều kiện đương thời, nên F. W.

Nietzsche chủ yếu tập trung vào Kitô giáo. Tòa soạn Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo đăng bài “Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm

“Zarathustra đã nói như thế” của Friedrich Wilhelm Nietzsche của

hai nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Dũng và Hoàng Đức Bình để góp

phần thảo luận vấn đề tôn giáo một cách rộng rãi.

pdf 11 trang dienloan 9560
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm “zarathustra đã nói như thế” của friedrich wilhelm nietzsche", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm “zarathustra đã nói như thế” của friedrich wilhelm nietzsche

Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm “zarathustra đã nói như thế” của friedrich wilhelm nietzsche
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 – 2014 3 
NGUYỄN TIẾN DŨNG(*) 
HOÀNG ĐỨC BÌNH(**)
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO 
TRONG TÁC PHẨM “ZARATHUSTRA ĐÃ NÓI NHƯ THẾ” 
CỦA FRIEDRICH WILHELM NIETZSCHE 
Lời Tòa soạn: Trong nghiên cứu tôn giáo, có nhiều cách tiếp cận 
cái linh thiêng (le Sacré). Có những quan điểm của các học giả 
trên thế giới phân tích và phê phán biểu hiện đối với cái linh thiêng 
của các tôn giáo khác nhau. Tác phẩm “Zarathustra đã nói như 
thế” của nhà tư tưởng nổi tiếng người Đức Friedrich Wilhelm 
Nietzsche là một cách như vậy. Do điều kiện đương thời, nên F. W. 
Nietzsche chủ yếu tập trung vào Kitô giáo. Tòa soạn Tạp chí 
Nghiên cứu Tôn giáo đăng bài “Vấn đề tôn giáo trong tác phẩm 
“Zarathustra đã nói như thế” của Friedrich Wilhelm Nietzsche của 
hai nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Dũng và Hoàng Đức Bình để góp 
phần thảo luận vấn đề tôn giáo một cách rộng rãi. 
Tóm tắt: Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 - 1900) là một nhà tư 
tưởng nổi tiếng của Đức. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là 
“Zarathustra đã nói như thế”. Trong tác phẩm này, ông đã bàn 
đến một vấn đề mà cho đến hôm nay vẫn còn mang tính thời sự, đó 
là giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Để làm rõ chủ đề 
này, ông đã phải lý giải các vấn đề lên quan đến tôn giáo. Quan 
niệm về tôn giáo của ông trong tác phẩm “Zarathustra đã nói như 
thế” đã từng là hiện tượng gây sốc ở Phương Tây. Bài viết này xin 
được giới thiệu quan niệm của F. W. Nietzsche về vấn đề tôn giáo 
trong tác phẩm “Zarathustra đã nói như thế”. 
Từ khóa: vấn đề tôn giáo, “Zarathustra đã nói như thế”, Friedrich 
Wilhelm Nietzsche. 
Zarathustra đã nói như thế(1) là tác phẩm cuối cùng của Friedrich 
Wilhelm Nietzsche. Trong tác phẩm này, F. W. Nietzsche lật đi lật lại các 
chủ đề đã được đề cập trong một số tác phẩm của ông mang tính thử 
*. PGS.TS., Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. 
**. ThS., Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thừa Thiên - Huế. 
4 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 4
nghiệm xuất bản từ trước. Từ tinh thần ấy, ông đã kiện toàn tư tưởng và 
cố định ở ba vấn đề cơ bản là: tôn giáo, cuộc sống và con người. Những 
vấn đề này đan xen vào nhau lập thành một kết cấu ổn định triết lý của F. 
W. Nietzsche nói chung và tác phẩm của ông nói riêng. Vì vậy, sự phân 
chia chỉ có ý nghĩa tương đối. Sự tương đối này đòi hỏi khi phân tích 
từng chủ đề của tác phẩm không thể không đặt trong sự so sánh liên hệ 
với các chủ đề khác được xuất bản từ trước. 
Thực tế lịch sử cho thấy, quan niệm về hình thái ý thức xã hội tôn giáo 
luôn là một thành tố không thể thiếu trong các hệ thống triết học. Ngay từ 
thời Cổ đại, việc phân chia triết học thành hai hình thức cơ bản là chủ 
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã chứa đựng những quan điểm đối 
lập nhau trong việc xem xét vấn đề tôn giáo. Những triết gia duy vật dù 
còn ở trình độ thấp nhưng bước đầu kết luận nguồn gốc của tôn giáo là do 
sự nhận thức non nớt của con người, tôn giáo là do con người tạo ra. Đến 
thời kỳ Phục Hưng và Cận đại, về cơ bản, các nhà triết học duy vật vẫn 
tiếp tục những quan điểm đó, sự khác biệt chỉ ở mức độ dựa vào các 
thành tựu của khoa học thực nghiệm đương thời để làm rõ nhận định về 
tôn giáo. Có thể nói, với chủ nghĩa duy vật trước K. Marx, tôn giáo vẫn là 
một trong những vấn đề còn bỏ ngỏ. 
Trong khi đó, ở Phương Tây, thần học và chủ nghĩa duy tâm lại không 
ngừng chung sức, chung lòng ca ngợi tôn giáo. Theo Kinh Thánh, Thiên 
Chúa sáng tạo ra tất cả. Trái đất và sự sống ở trên Trái Đất là đặc ân của 
Thiên Chúa ban cho con người. Con người chỉ là lữ hành cô độc trong 
hành trình tiến về Nước Chúa vĩnh hằng. Bởi vậy, con người không sống 
mà chỉ là chuẩn bị sống, hạnh phúc ở trần gian là ảo vọng. Vì vậy, thân 
xác của con người là tạm bợ, không đáng tôn trọng. Mọi hoạt động xuất 
phát từ thân xác phải được xem là những dục vọng thấp hèn. Nghĩa là, 
thước đo giá trị hoạt động của con người không phải ở nó mà ở trên cao, 
bên ngoài nó. 
Tôn giáo ở Phương Tây đã tạo ra một hệ thống giá trị quy định đời 
sống trần gian của con người. Bờ vai con người oằn xuống dưới thang 
bậc của hệ thống giá trị đó. Đức tin trở thành bảng chỉ đường cho mọi 
hoạt động của con người. Trước tình trạng đó, một vài triết gia đã lên 
tiếng tố cáo, nhưng tiếng kêu của họ như là hạt sạn thả xuống ao bèo. Cả 
guồng máy khổng lồ của Phương Tây vẫn vận hành trong cơ chế đó. Bởi 
vì, chủ nghĩa tư bản khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là loại bỏ 
Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Đức Bình. Vấn đề tôn giáo 5 
 5
chế độ phong kiến cũng để tung hô một cuộc cách mạng tinh thần. Giai 
cấp tư sản đã nhận thấy những chuẩn mực giá trị của tôn giáo là cản lực 
của cách mạng tư sản. Nhưng khi xác lập ổn định vị trí thì giai cấp tư sản 
lại chìa bàn tay về phía tôn giáo. 
Quan niệm về tôn giáo của F. W. Nietzche thống nhất từ tác phẩm đầu 
tiên cho tới tác phẩm cuối cùng. Zarathustra đã nói như thế là sự tổng kết 
cả quá trình kiến thiết về tư tưởng tôn giáo. Nhân danh người tiên tri của 
thời đại (Zarathustra là tiên tri của Islam giáo), F. W. Nietzsche đã phán 
quyết như một quan tòa rằng “Thượng Đế đã chết” ngay ở phần mở đầu 
của tác phẩm. Sự kiện này đã tạo nên một nghịch lý ở chỗ, trước đây, 
Thượng Đế là người phán xử cuối cùng, thì ngày nay, Thượng Đế lại bị 
con người phán quyết và kết tội chết. Sự ra đi của Thượng Đế đã làm sụp 
đổ các nền tảng của Kitô giáo nói riêng và tôn giáo nói chung. Những 
quan niệm bấy lâu nay hằng ngày bủa vây con người đã đến lúc con 
người được quyền tháo bỏ. Không ai có thể nhân danh bất cứ một cái gì 
đó không có mặt trên trần gian để phán quyết con người trừ chính bản 
thân con người. Theo F. W. Nietzsche, đó chính là tặng vật ông muốn 
dâng hiến cho loài người: “Nào tôi có nói đến tình yêu. Tôi đến hiến cho 
loài người một tặng phẩm rằng “Thượng Đế đã chết”(2). 
Mặc dù chưa hiểu được trong quá trình phản ánh các hình thái ý thức 
xã hội có tính độc lập tương đối, nhưng F. W. Nietzsche biết rằng, khi 
tuyên bố Thượng Đế đã chết vẫn chưa đủ để chấm dứt những quan niệm 
truyền thống của Kitô giáo đã trở thành nếp trong đời sống và tư duy của 
con người. Vì vậy, cần phải chỉ rõ những di chứng của nó để loài người 
nhận chân về một thuở ấu trĩ của mình (từ của F. W. Nietzsche, tương 
ứng với hành trình hóa thân của tinh thần từ lạc đà đến sư tử và trẻ thơ). 
Với tư cách là “triết gia với cây búa tạ”(3) và mục đích “thúc đẩy nhân 
loại đi đến những quyết định của tương lai”(4), ông đã lật ngược lại tất cả 
quan niệm của Kitô giáo về con người, vũ trụ và nhân sinh. 
Theo F. W. Nietzsche, khái niệm tiền kiếp hay hậu kiếp chỉ là những 
ảo ảnh do tôn giáo tạo ra để gây sự sợ hãi cho con người trong suốt chiều 
dài của lịch sử. Mọi sự sống đều bắt đầu ở trên mặt đất này. Bởi vậy, nếu 
không muốn rơi vào tình trạng tự túm tóc mình rồi bảo mình đang ở trên 
mặt đất, thì phải thấy hiện sinh của con người là ở ngay trên mặt đất này. 
F. W. Nietzsche tha thiết kêu gọi loài người: “Hỡi các anh em, ta van xin 
các người, hãy trung thành với mặt đất và chớ tin vào các kẻ nói với các 
6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 6
ngươi về hy vọng lững lờ trên bề mặt đất. Họ là những kẻ đầu độc, dẫu 
họ có ý thức điều đó hay không. Họ là những kẻ khinh miệt đời sống, 
những kẻ hấp hối và cũng chính là những kẻ bị đầu độc, mặt đất đã quá 
mệt mỏi chán chê họ, họ hãy cút đi cho khuất mắt. Xưa kia, báng bổ 
Thượng Đế là lời báng bổ nặng nhất, nhưng Thượng Đế đã chết và cùng 
chết theo Thượng Đế là những kẻ báng bổ ấy. Giờ đây, điều đáng khủng 
khiếp hơn nhiều là báng bổ mặt đất và coi trọng ruột rà của cõi bất khả 
thấu nhập hơn ý nghĩa, chiều hướng của mặt đất”(5). 
Chúng ta dễ dàng nhận thấy, việc F. W. Nietzsche phủ nhận sự hiện 
hữu thực sự của con người ở trên mặt đất có nhiều nét tương đồng với 
quan niệm của nhiều nhà triết học duy vật Phương Tây thời Cận đại. 
Denis Diderot (1713 - 1784), một triết gia Pháp từng cho rằng: “Địa 
Ngục, Thiên Đường quá xa xôi, trong khi những cái cần cho sự sống lại ở 
ngay trước mặt”(6), hay “Chúa của những người Cơ Đốc giáo, đó là 
những người cha chỉ biết coi trọng những đám mây chứ không lưu tâm gì 
đến những đứa con của ông ta đang hiện hữu trên mặt đất”(7). Với Baron 
Holbach (1723 - 1789), thoát ly cuộc sống trần thế, con người trở thành 
kẻ ở nhờ trong ngôi nhà của chính mình. Do vậy, tôn giáo không phải 
làm cho đời sống con người trở nên thanh cao, mà đang làm tha hoá đời 
sống thực của con người. Sự khác biệt giữa F. W. Nietzshe với các nhà 
triết học Phương Tây thời Cận đại ở chỗ, ông quyết liệt hơn, mạnh bạo 
hơn và bi tráng hơn. Điều này có cơ sở của nó. Bởi vì, lúc này, chế độ tư 
bản đã ổn định và thịnh vượng, nên các thế lực tôn giáo không còn ở thế 
thượng phong như các xã hội trước đây. 
Theo Kinh Thánh, con người là một thực thể lưỡng phân gồm hai 
phần: phần hồn và phần xác. Trong đó, thân xác là tạm bợ, linh hồn là 
vĩnh cửu vì Thiên Chúa ban cho. Với F. W. Nietzsche, thân xác của con 
người mới là đáng quý, vì con người sống bằng thân xác, tư duy bằng 
thân xác, các xung lực được tàng ẩn trong thân xác, sự gặp gỡ giữa người 
với người bắt đầu bằng thân xác. Do vậy, nếu kẻ nào khinh chê thân xác 
nghĩa là kẻ đó đang báng bổ vào chính mình(8). Ông cho rằng, mục đích 
của sự phân chia và phân định chức năng giữa phần hồn và phần xác của 
tôn giáo sẽ dẫn đến những phán xét giả tạo về ý nghĩa của sinh tồn, loại 
bỏ đi mặt sống động đầy hứng khởi của nguồn lực Dyonysos (thần Rượu 
nho). Trong khi đó, linh hồn không thể không dung thân trong thân xác. 
Sự cao ngạo của linh hồn thực ra chỉ do Kitô giáo cố ý gán ghép, cường 
Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Đức Bình. Vấn đề tôn giáo 7 
 7
điệu, để bỏ qua những sự thật hiển nhiên nhất. Cho dù con người “là một 
dòng sông nhơ bẩn” (từ của F. W. Nietzsche), thì dòng sông đó vẫn là 
chỗ cư ngụ của linh hồn, dẫu tạm bợ thì vẫn phải có quan hệ với linh hồn. 
Người ta có quyền đối chất với Thiên Chúa rằng, Ngài đã tạo ra con 
người, ban cho con người linh hồn, tại sao Ngài lại khinh chê ngay sản 
phẩm do mình tác chế ra. 
Về mặt thực tế, F. W. Nietzsche nhấn mạnh, nếu thân xác mà không 
khỏe mạnh thì không thể có tư duy mẫn tiệp. Linh hồn là một đại lượng 
phiếm chỉ, trong khi đó, thân xác luôn có một cái tên, một cái họ. Các 
linh mục dạy người ta là cái chết bắt đầu bằng sự ra đi của linh hồn, 
nhưng sự thật, bao giờ sự chấm dứt hiện hữu của một kiếp người cũng bắt 
đầu từ thân xác(9). Vì thế, chúng ta phải làm một phép đảo hoán trong 
quan niệm là thân xác quan trọng hơn linh hồn, linh hồn phải chịu sự quy 
định của thân xác, tránh tình trạng như quan niệm truyền thống: “Khi 
xưa, linh hồn đưa con mắt nhìn thân xác với vẻ khinh miệt và lúc bấy giờ 
chẳng có gì cao cả hơn sự khinh miệt đó, linh hồn muốn cho thân xác ốm 
o, khả ố, đói khát. Làm thế, linh hồn tưởng là đã thoát được thân xác, 
thoát được thân xác và mặt đất. Ôi, tấm linh hồn ấy đã còn ốm o, khả ố, 
đói khát và sự tàn bạo là nỗi khoái lạc của linh hồn này!”(10). 
Như vậy, trong quan niệm về tôn giáo, F. W. Nietzsche đã đặt ra hai 
vấn đề hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Nhà thờ, đó là đời sống 
thật sự của con người trên trái đất này, và con người được gọi là con 
người vì có thân xác. Do vậy, thân xác là cái đáng quý, đáng trọng. Với 
hai quan điểm này, ông đã phủ nhận những tín điều quan trọng nhất của 
Kitô giáo, trở về với đặc tính tinh khôi (từ của F. W. Nietzsche) vốn có 
của con người. 
Tính vô lý của hai sự kiện này trong cách hành xử của Nhà thờ ở chỗ: 
Thứ nhất, đó là nguyên nhân dẫn đến “Đau khổ và bất lực - đấy là những 
cái tạo nên những cõi - bên - kia, tạo nên cơn điên cuồng ngắn ngủi mà 
duy kẻ chịu đựng nỗi thống khổ ngất trời mới biết đến”(11). Thứ hai, chính 
những kẻ hằng ngày đang thuyết giảng trên các giáo đường cũng không 
tin rằng có thế giới bên kia, rằng thân xác là không đáng được coi trọng: 
“Ta biết quá rõ những kẻ giống với Thượng Đế, chúng muốn rằng thiên 
hạ tin nơi chúng và hoài nghi là một trọng tội. Nhưng ta biết quá rõ, 
chúng tin tưởng vào điều gì hơn cả. Thực ra, chúng không tin vào cõi bên 
kia cùng những giọt máu cứu thế. Chính chúng cũng tin vào thân xác 
8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 8
nhiều hơn và chính thân xác chúng là cái được chúng xem là sự vật tự 
nội”(12). Thứ ba, nếu có Thượng Đế thì Ngài vẫn cần phải có thân xác để 
hiện hình. Bằng chứng là trong các nhà thờ đầy rẫy tranh, tượng về các vị 
thánh của Kitô giáo. Bản thân Thượng Đế cũng biểu hiện sự tồn tại của 
mình như vậy: “Vị Thượng Đế đó chỉ là con người, là mảnh vụn thảm 
thương của một con người và một “ngã thể”. Vị Thượng Đế hình ma 
bóng quế đó xuất sinh từ mớ tro lạnh và từ lò than hồng của chính ta. 
Thực ra, vị Thượng Đế đó không đến với ta từ cõi bên kia mà từ mặt 
đất”(13). Những kết luận này của F. W. Nietzsche đã nhận được sự chia sẻ 
của nhiều học giả sau này. Chẳng hạn, Krishnamurti cũng chung nhận 
định như thế khi ông viết: “Không bao giờ có thể có các tôn giáo lý tưởng 
nên chúng ta không nên mất thì giờ thảo luận về chúng. Chúng chỉ hiện 
hữu trong lý thuyết mà không thể có trong thực tế”(14). 
Từ những nghịch lý này, F. W. Nietzsche đã dẫn đến một luận đề nhân 
sinh vô cùng quan trọng là vai trò của tôn giáo trong đời sống con người. 
Theo ông, những tổ chức giáo đoàn cứu rỗi, hồng ân, bí tích, những lời 
hứa đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật hứa hẹn chẳng giúp ích gì cho đời 
sống của con người. Không có Thượng Đế, con người vẫn sống như thế! 
Có Thượng Đế, con người không có quyền sống như con người muốn. 
Thượng Đế không chỉ là nguyên nhân của sự sa đọa về mặt thân xác, mà 
còn là căn nguyên của sự tha hóa nhân cách. Khi khom lưng cúi lạy trước 
những bức tượng Chúa, con người biết rằng, đó là những hình tượng 
được làm bằng các chất liệu của cuộc đời này, ở ngay dưới chân người 
đang sống. Sự linh thiêng đã bắt con người tư duy lộn ngược, từ vai trò 
chủ thể chuyển thành lệ thuộc. Vậy tại sao con người không tin vào thân 
xác, cảm xúc của thân xác, lắng nghe nhịp đập của trái tim đang nuôi 
sống thân xác bằng những dòng máu đỏ có nguồn gốc từ mặt đất, mà lại 
tự làm khổ mình bằng những cái do mình tạo ra. Con người hãy trở về 
với chính mình và bắt đầu từ chính mình: “Hỡi các anh em! Nên lắng 
nghe tiếng nói của thân xác lành mạnh, đó là tiếng nói chân thực thuần 
khiết hơn. Thân xác lành mạnh lên tiếng với nhiều thiện ý và nhiều thuần 
khiết hơn, thân xác toàn vẹn, đứng thẳng, thân xác ấy nói về chiều hướng 
và ý nghĩa của mặt đất trần gian”(15). 
Theo F. W. Nietzsche, nguyên nhân của sự băng hoại ý chí, đạo đức, 
dục tính của người đời là ở Kitô giáo. Cái gọi là văn minh ngày nay chỉ là 
sự phóng đại của văn minh được ban phát từ trên cao nên không phải là 
Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Đức Bình. Vấn đề tôn giáo 9 
 9
thực chất. Con người chạy theo ảo ảnh, ảo ảnh quay lại hành hạ con 
người. Cuộc sống của con người trong vòng cương tỏa của tôn giáo 
chẳng khác gì những chiếc đèn kéo quân. Sáng đó, bóng đó nhưng không 
thể là thật. Trong khi đó, các giáo chủ, các thầy dòng không ngừng thông 
qua rao giảng để làm thui chột đi phần người cuối cùng của người trong 
cuộc sinh tồn ngắn ngủi. “Người thầy tu khổ hạnh, tên phù thủy già nua 
trong trận chiến đấu chống lại kẻ đau khổ kia ơi! Khi làm hư hỏng con 
người bằng cách làm yếu hèn họ đi, hắn tuyên bố là nhờ mình mà con 
người trở nên tốt đẹp nhất. Đó quả là một sự suy đồi thực sự”(16). 
Bản thân những người truyền đạo, theo F. W. Nietzsche, cũng chỉ là 
những người đang sống trong mầm bệnh, vì họ là những người đeo đuổi lý 
tưởng khổ hạnh, chờ đợi ân sủng ở kiếp sau. Sự trớ trêu của Kitô giáo ở 
chỗ, người ta đang dùng chính những kẻ bệnh hoạn để canh giữ, khống chế 
những người mới chớm bệnh. Bởi vì, chỉ có những kẻ bị bệnh mới biết 
những người bắt đầu bị bệnh cần gì và làm như thế nào để bệnh có thể 
nặng thêm. Trong con mắt của F. W. Nietzche, tôn giáo đã mất đi ý nghĩa 
linh thiêng, từ biểu tượng cần hướng đến thành cái xấu xa cần loại bỏ. 
Có thể nói, quan điểm về tôn giáo của F. W. Nietzche không rơi vào 
tình trạng tiên thiên bất túc, mặc dù trong tác phẩm Zarathustra đã nói 
như thế, ông có ý niệm về sự quy hồi vĩnh cửu. Sự quy hồi vĩnh cửu 
trong chừng mực nào đó phải được xem là một lời than vãn của ông về sự 
ngắn ngủi của kiếp người. Vì vậy, cần phải quy hồi để có thể lặp lại nhiều 
lần trên mặt đất này. Xét đến cùng, đó cũng là sự tuyên chiến với tôn 
giáo, vì khi mọi cái đều quy hồi, thì chính quy hồi phải được hiểu là sự 
tái sinh, sự bừng sáng của ý chí sinh tồn trong vòng quay của nó. Bởi 
vậy, không ít học giả Phương Tây đã cho rằng, quy hồi là lọc bỏ, là vươn 
lên của ý chí sinh tồn. 
Khi bàn về chủ đề tôn giáo trong triết học F. W. Nietzsche, phần lớn 
các nhà nghiên cứu thường thắc mắc tại sao một con người vốn sùng đạo, 
một con chiên của Chúa lại chống Chúa một cách quyết liệt như thế. 
Cần khẳng định, F. W. Nietzche không phải là trường hợp cá biệt. 
Không ít những người trước đây vốn đầy lòng mộ đạo, thậm chí là linh 
mục, cũng như vậy. Nhìn vào cuộc đời F. W. Nietzsche, có thể thấy rõ, 
những biến cố quan trọng nhất của cuộc đời ông thường gắn với tiếng 
chuông nhà thờ, nhưng tiếc rằng đó lại chỉ là những sự kiện đầy ảo não, 
rơi lệ. Nói cách khác, mỗi lần tiếng chuông nhà thờ gióng lên, ông lại bị 
10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 10 
tước mất những gì thân yêu, quý giá nhất của đời mình. Tiếng chuông 
nhà thờ với ông đã trở thành âm thanh báo tử, chia ly. Mặc cảm ấy đeo 
đuổi suốt cuộc đời ông. Ông đến với Chúa không phải vì lòng kính Chúa, 
mà đến với Chúa như một kẻ ở nhờ, tá túc để mưu sinh, kiếm chữ. 
Nghịch lý mà ông cảm nhận được trong những năm tháng học tập ở các 
nhà trường tôn giáo là tôn giáo bám rễ rất chặt ở trên mặt đất này chứ 
không phải tôn giáo là nhịp cầu nối giữa trần gian và thượng giới. Tôn 
giáo ấn định cho người ta những điều cao siêu huyền bí, nhưng hình ảnh 
cuộc sống của các linh mục, giám mục lại là một sự tương phản. Những 
cảm nhận giống như a xít bào mòn và triệt tiêu đức tin ở trong ông. Một 
khi đức tin đã biến mất thì ý chí được sống và sống như mình muốn trỗi 
dậy là một tất yếu. Nhưng từ điều đó không nên đi đến kết luận F. W. 
Nietzsche chống tôn giáo vì động cơ cá nhân. Sự phát triển của chủ nghĩa 
tư bản không thể không đẻ ra những dị tật trong đời sống của con người. 
Giới hạn địa vị giai cấp không cho phép F. W. Nietzsche nhìn thấy những 
hậu quả không tránh khỏi của chế độ tư hữu đang hành hạ con người. 
Ông đã truy tìm nguyên nhân của những tệ nạn đó ở tôn giáo. Bởi thế, có 
thể chấp nhận quan điểm của Felicien Challaye một học giả người Đức 
là: F. W. Nietzsche đến với tôn giáo vì cuộc sống và cũng vì cuộc sống 
mà F. W. Nietzsche chống tôn giáo. 
Quan niệm về tôn giáo của F. W. Nietzsche có thể được xem là một 
triết lý mới về tôn giáo ở Phương Tây. Điều này không đồng hành với 
việc F. W. Nietzsche đã tạo ra một bước ngoặt trong việc giải quyết vấn 
đề tôn giáo, thậm chí một cái nhìn mới về tôn giáo, mà chỉ dừng lại ở 
chỗ, tính chất quyết liệt của việc chống tôn giáo. 
Trước F. W. Nietzsche đã có nhiều người chống tôn giáo. Nhiều người 
đã vạch trần sự ảo ảnh trong phản ánh hiện thực của tôn giáo, nhất là các 
nhà triết học duy vật Pháp thời Cận đại, nhưng mạnh dạn và quyết liệt 
như F. W. Nietzsche là chưa từng có. Ông tuyên bố, Thượng Đế đã chết; 
tôn giáo là nguyên nhân dẫn con người đến thảm bại; tôn giáo là kẻ 
khổng lồ dị dạng truyền bá dịch bệnh cho xã hội. Vì vậy, tôn giáo cần 
phải được loại bỏ ra khỏi đời sống của con người. Những luận điểm này 
không ít thì nhiều thể hiện tấc lòng của ông mong mỏi đời sống của con 
người có ý nghĩa hơn trong cuộc sinh tồn ngắn ngủi, là lực đẩy để con 
người vượt qua những rào cản, giới hạn đang bó buộc mình để gặt hái 
hạnh phúc ngay trên mặt đất. 
Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Đức Bình. Vấn đề tôn giáo 11 
 11 
Giống như nhiều nhà triết học khác, F. W. Nietzsche giải thích tôn 
giáo là sự nhận thức non nớt của con người. Con người tạo ra tôn giáo rồi 
lại bị tha hoá vì cái mình đã tạo ra. F. W. Nietzsche không nhìn thấy 
nguyên nhân xã hội của vấn đề tôn giáo, càng không biết tôn giáo là nhu 
cầu tâm lý trong xã hội tồn tại những bất công nghịch lý, nên ông chỉ 
dừng lại ở mức độ chỉ trích, kiểm điểm tôn giáo. Theo K. Marx, kiểm 
điểm tôn giáo chỉ là điều kiện chứ không phải là những giải pháp về vấn 
đề tôn giáo. 
Từ lập trường duy vật biện chứng, chúng ta ghi nhận những quan 
niệm về tôn giáo của F. W. Nietzsche thể hiện trong tác phẩm 
Zarathustra đã nói như thế. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng những 
quan niệm này của ông đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong đánh giá 
về tôn giáo ở Phương Tây. “Thượng Đế đã chết” trở thành một triết lý về 
ý nghĩa cuộc sống của người Phương Tây hiện đại, ảnh hưởng sâu rộng 
trong văn học và học thuật. Sau F. W. Nietzsche, Thượng Đế đã mất đi sự 
bất tử, độc tôn trong sự phán xét, sức mạnh của con người được nhân lên, 
bởi trong tính thụ động của nó, con người đã có các quyền phán xét 
Thượng Đế, một việc chưa từng có trong lịch sử. F. W. Nietzsche đã tạo 
ra tiền lệ ấy. Vai trò của ông là người mở đường, như Lỗ Tấn nhà văn 
Trung Quốc đã từng nói về sự hình thành những con đường: “Nhiều 
người đi thì trở thành đường, nhưng bao giờ cũng cần phải có người đi 
đầu tiên”. Ý nghĩa của vấn đề chính là ở chỗ đó. Triết học F. W. 
Nietzsche nói chung và quan niệm về tôn giáo của ông nói riêng không 
được xã hội Phương Tây chấp nhận, nhất là khi chủ nghĩa phát xít đã tôn 
vinh F. W. Nietzsche là nhà lý luận tiền bối cho dù ông là người có tư 
tưởng chống bài Do Thái và chủ nghĩa dân tộc Đức. Vấn đề này dường 
như đã làm tốn không ít giấy mực của các học giả Phương Đông và 
Phương Tây. Chủ nghĩa phát xít đã khai thác những quan niệm hư vô 
trong tư tưởng của F. W. Nietzsche về giá trị văn hóa và tôn giáo. 
Trong quan niệm về tôn giáo, F. W. Nietzsche có thái độ phủ định 
sạch trơn nên không thấy được Kitô giáo nói riêng và tôn giáo nói chung, 
bên cạnh những vấn đề về mặt học thuật và khoa học cần phải xem xét, 
còn là thành tố khó có thể thiếu trong phần lớn đời sống của Phương Tây. 
Nói cách khác, tôn giáo đã trở thành văn hóa, một phần bảng giá trị của 
Phương Tây. Trong chừng mực nào đó, tôn giáo còn được thừa nhận là 
vitamine của nhân dân(17). 
12 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014 
 12 
Mọi tôn giáo có một điểm chung là bằng những cách khác nhau đều 
hướng tín đồ của mình đến điều thiện, tìm đến sự khoan dung. Vì vậy, 
cần có quan điểm phát triển và lịch sử cụ thể khi xem xét vấn đề tôn giáo, 
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về việc xem xét này./. 
CHÚ THÍCH: 
1. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, Nxb. Văn học, Hà Nội. 
2. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 29. 
3. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 6. 
4. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 6. 
5. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 30 - 31. 
6. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học Phương Tây, Nxb. Văn nghệ, 
Thành phố Hồ Chí Minh: 352. 
7. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học Phương Tây, sách đã dẫn: 358. 
8. Tư tưởng đó của F.W. Nietzsche đã được chủ nghĩa hiện sinh sau này kế thừa 
với quan niệm: tôi là thân xác tôi 
9. Trước đó, nhà triết học người Pháp René Descartes (1596 - 1650) cũng quan 
niệm như vậy. 
10. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 31. 
11. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 63. 
12. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 67. 
13. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 63. 
14. Krishnamurti: Cuộc đời và Tư tưởng - Dòng sông thanh tẩy, Nxb. Văn học, Hà 
Nội, 2002: 18. 
15. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 67. 
16. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, sách đã dẫn: 129. 
17. Xin xem Mỹ - Âu - Nhật: văn hóa và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Tiến Dũng (2009), Lịch sử triết học Phương Tây, Nxb. Văn nghệ, 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
2. Krishnamurti: Cuộc đời và Tư tưởng - Dòng sông thanh tẩy, Nxb. Văn học, Hà 
Nội, 2002. 
3. Mỹ - Âu - Nhật: văn hóa và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003. 
4. F.W. Nietzsche (1999), Zarathustra đã nói như thế, Nxb. Văn học, Hà Nội. 
Nguyễn Tiến Dũng, Hoàng Đức Bình. Vấn đề tôn giáo 13 
 13 
Abstract 
A MATTER OF RELIGION IN THE BOOK “ALSO SPRACH 
ZARATHUSTRA” (THUS SPOKEN ZARATHUSTRA) BY 
FRIEDRICH WILHELM NIETZSCHE 
Editor’s note: In studying religion there are many approaches to 
sacredness. Many scholars in the world have shown their opinions when 
analyzing and criticizing manifestation of sacredness of religions. The 
book “Also sprach Zarathustr” (Thus spoken Zarathustr) by the famous 
German thinker Friedrich Wilhelm Nietzsche also dealt with the 
sacredness of religions. Because of contemporary condition, F. W 
Neitzsche only paid attention to Christianity. Religious Studies Review 
presents an article “Religious matter in the book “Also sprach 
Zarathustra” (Thus spoken Zarathustra) by Friedrich Wilhelm Nietzs” by 
two researchers Nguyễn Tiến Dũng and Hoàng Đức Bình to contribute to 
the discussion on religious matter. 
Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 - 1900) was a famous German 
thinker. His best book was “Also sprach Zarathustra” (Thus spoken 
Zarathustra). In this book, he dealt with questions that are still topical ones. 
These questions were the value and the true significance of life. In order to 
make clear these questions, he explained many issues relating to religion. 
His opinion about religion in “Also sprach Zarathustra” was shock to the 
West. This article presents F. W. Nietzsche’s opinion on religious matter in 
“Also sprach Zarathustra”. 
Key words: Religious matter, “Also sprach Zarathustra” (Thus 
spoken Zarathustra), Friedrich Wilhelm Nietzsche. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_ton_giao_trong_tac_pham_zarathustra_da_noi_nhu_the_cu.pdf