Tiểu luận Con người Việt Nam trong quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
Tại sao lại phải nghiên cứu về phạm trù con người và vấn đề về con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khi thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và trên thế giới đã có rất nhiều, rất nhiều nước đã trở thàmh những nước công nghiệp lớn. Phải chăng đó là vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương thức duy nhất để phát triển nền kinh tế thế giới và bất kỳ một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm, quá lạc hậu so với bước đi của thế giới? Và phải chăng giống như các quốc gia khác, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật chung đó? Nhưng quan trọng hơn cả, phải chăng con người là chủ thể, là mấu chốt, là điểm khởi đầu cũng như là cái đích của quá trình lâu dài này?
Đúng là trên thực tế ở nhiều quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra nhiều thành tựu khoa học không thể phủ nhận được. Chẳng hạn việc sử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng khoáng sản; sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Nhờ phát minh con người sử dụng nguồn vật liệu mới này mà con người đã có thể thu nhỏ máy tính điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích đồng thời tăng hiệu năng của nó lên hàng chục vạn lần so với ba chục năm trước. Sự ra đời và xuất hiện các loại vật liệu mới đang ngày càng trở thành nhân tố vô cùng quan trọng của sự phát triển sức sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Cùng với quá trình tự động hoá, tiến bộ khoa học công nghệ cho thấy khả năng loài người sẽ tiến tới một xã hội của cải tuôn ra rào rạt.
Còn ở Việt Nam thì sao?
Cho đến nay,Việt Nam vẫn thuộc loại những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn ở tình trạng lạc hậu, còn mang tính chất tự cấp, tự túc, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, tình hình mất cân đối vẫn nghiêm trọng, bội chi ngân sách còn lớn, tốc độ tăng dân số cao, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng (7% dân số thành thị thất nghiệp), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới: 220$ (tại thời điểm tháng 9 năm 1993), thấp hơn Lào, Bangladesh, chỉ bằng 1/9 của Thái Lan, bằng 1/4 của Malaysia, 1/45 của Đài Loan; tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Gắn liền với nền kinh tế đó là lối làm ăn tản mạn và tuỳ tiện của sản xuất nhỏ. Cùng với những thuyền thống tốt đẹp mà chúng ta đang kế thừa cũng có những truyền thống lạc hậu của người đã chết đang đè nặng lên vai người đang sống. Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII (từ 24/11/1993 đến 1/12/1993) và Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (20-25/1/1994) đã xác định tới đây nước ta “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.” Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó cho thật hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng; bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu nếu không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thì lại là một tai họa. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đã để lại cho thế hệ tương lai một cái gánh quá nặng và sẽ có tội rất lớn đối với những ai đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc bảo vệ đất nước.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Con người Việt Nam trong quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
LỜI NÓI ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Tại sao lại phải nghiên cứu về phạm trù con người và vấn đề về con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khi thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và trên thế giới đã có rất nhiều, rất nhiều nước đã trở thàmh những nước công nghiệp lớn. Phải chăng đó là vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phương thức duy nhất để phát triển nền kinh tế thế giới và bất kỳ một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm, quá lạc hậu so với bước đi của thế giới? Và phải chăng giống như các quốc gia khác, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật chung đó? Nhưng quan trọng hơn cả, phải chăng con người là chủ thể, là mấu chốt, là điểm khởi đầu cũng như là cái đích của quá trình lâu dài này? Đúng là trên thực tế ở nhiều quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo ra nhiều thành tựu khoa học không thể phủ nhận được. Chẳng hạn việc sử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng khoáng sản; sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Nhờ phát minh con người sử dụng nguồn vật liệu mới này mà con người đã có thể thu nhỏ máy tính điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích đồng thời tăng hiệu năng của nó lên hàng chục vạn lần so với ba chục năm trước. Sự ra đời và xuất hiện các loại vật liệu mới đang ngày càng trở thành nhân tố vô cùng quan trọng của sự phát triển sức sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Cùng với quá trình tự động hoá, tiến bộ khoa học công nghệ cho thấy khả năng loài người sẽ tiến tới một xã hội của cải tuôn ra rào rạt. Còn ở Việt Nam thì sao? Cho đến nay,Việt Nam vẫn thuộc loại những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn ở tình trạng lạc hậu, còn mang tính chất tự cấp, tự túc, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, tình hình mất cân đối vẫn nghiêm trọng, bội chi ngân sách còn lớn, tốc độ tăng dân số cao, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng (7% dân số thành thị thất nghiệp), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới: 220$ (tại thời điểm tháng 9 năm 1993), thấp hơn Lào, Bangladesh, chỉ bằng 1/9 của Thái Lan, bằng 1/4 của Malaysia, 1/45 của Đài Loan; tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Gắn liền với nền kinh tế đó là lối làm ăn tản mạn và tuỳ tiện của sản xuất nhỏ. Cùng với những thuyền thống tốt đẹp mà chúng ta đang kế thừa cũng có những truyền thống lạc hậu của người đã chết đang đè nặng lên vai người đang sống... Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII (từ 24/11/1993 đến 1/12/1993) và Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (20-25/1/1994) đã xác định tới đây nước ta “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.” Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó cho thật hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng; bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu nếu không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thì lại là một tai họa. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đã để lại cho thế hệ tương lai một cái gánh quá nặng và sẽ có tội rất lớn đối với những ai đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc bảo vệ đất nước. Nhưng nếu chỉ có như vậy thì tại sao lại phải đề cập đến vấn đề con người? Liệu có phải con người đang giữ một vai trò gì đó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và hơn thế nữa phải chăng đó là một vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới này? Trước hết có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn tài nguyên con người là trí tuệ. Theo quan niêm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai thác cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con người đã, đang và sẽ không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài nguyên trí tuệ không có giới hạn. Tính vô tận của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vô tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên nhiên còn vô tận nhưng chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội. Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên lịch sử của chính mình bằng lao động được định hướng bởi trí tuệ đó. Ta đã biết rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”(1), tức là phải thông qua trí tuệ của họ. Trước tiên, những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng như bất kỳ một động vật nào khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định” (2). Sự khác biệt căn bản về mặt “tổ chức cơ thể” giữa con người và con vật chính là bộ óc và đôi bàn tay. Bộ óc điều khiển đôi bàn tay, nghĩa là bằng trí tuệ (bộ óc) và lao động (đôi bàn tay) con người đã tiến hành hoạt động biến đổi tự nhiên làm nên lịch sử xã hội, đồng thời trong quá trình đó đã biến đổi cả bản thân mình. Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh khoa học, những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo. Những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo... dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức hoàn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển khoa học kinh tế, của hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hoàn thiện, dù thông minh đến đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Do đó con người luôn luôn đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội. Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vị trí vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia” (3). Bởi vậy để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN và đưa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó đến thành công ở một nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao chất lượng mới. Nhận định này đã được khẳng định trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Một lần nữa ta có thể khẳng định tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu đề tài này. Qua đó, triết học tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong công cuộc đổi mới đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành như thế nào, quy mô và nhịp độ của nó ra sao, điều đó một phần tuỳ thuộc vào sự đóng góp của triết học. CHƯƠNG I NGUỒN GỐC VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN I . BẢN CHẤT CON NGƯỜI Con người là sinh vật có tính xã hội. Đối với Mác “con người không phải là một tồn tại trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới” (4). Đó là những con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định, có những quan hệ xã hội phong phú, phức tạp và ngày càng phong phú với sự phát triển của văn minh. Các Mác viết “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” (5). Qua luận đề nổi tiếng đó, chúng ta thấy Mác muốn nói bản chất con người, một sự trừu tượng khoa học, là sự khái quát từ đời sống cụ thể, từ thuộc tính của con người hiện thực, thế hệ này qua thế hệ khác, bản chất con người được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện thông qua tổng thể các quan hệ xã hội. Muốn tìm bản chất con người thì phải tìm ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài đời sống hiện thực của con người. Luận đề của Mác không làm mất đi tính cá nhân, khẳng định sự kỳ diệu, sự phong phú vô hạn của tính cách con người. Nếu đứng trên quan điểm sinh vật học mà xét thì không thể hiểu được chẳng những thực chất của con người, mà ngay cả ý nghĩa của cơ thể con người, từ khi quá trình nguồn gốc loài người kết thúc thì những biến đổi trong cơ thể đều được hướng dẫn bởi ảnh hưởng quyết định của văn hoá: khả năng đối xử có tính người đối với thế giới và đối với những người khác, khả năng lao động, giao tiếp với những người chung quanh, khả năng tư duy, có những tình cảm đạo đức và những xúc cảm thẩm mỹ, tất cả những cái đó đều không phải là đặc tính của cơ thể mà là những nét đã hình thành trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội, tiêu biểu cho thực chất của con người trong cách biểu hiện và bộc lộ cá thể của nó. Những nét ấy được hình thành nhờ chỗ con người tham gia vào hệ thống các quan hệ xã hội, vào quá trình hoạt động lao động, đi liền với sự tham gia của con người vào quá trình nắm vững và tái tạo nền văn hoá xã hội (lao động, hoạt động). Chính trong quá trình này con người đã tự sáng tạo ra bản thân mình một cách lịch sử và không ngừng tái hiện bản thân mình, tự giáo dục bản thân với tư cách là con người. Tiêu chuẩn lịch sử cho phép người ta phân biệt con người- đó là sản xuất ra công cụ lao động cũng bằng chính công cụ. Đồng thời tiền đề tuyệt đối và điều kiện của văn hoá con người là giới tự nhiên mà con người dùng để xây dựng nền văn hóa của mình bằng cách chinh phục tự nhiên một cách sáng tạo. Con người xã hội là kẻ sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra bản thân mình. Chính vì vậy, con người hoàn toàn mang tính xã hội. Vậy thì trong đời sống xã hội con người có vai trò gì? II . VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI, ĐẶC BIỆT TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT XÃ HỘI Hơn một trăm năm trước, khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, Các Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội. Các Mác cho rằng, xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt đoọng sống của chính con người. Chúng ta biết rằng sản xuất là quá trình hoạt động thực tiễn cơ bản của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Sản xuất quyết định nhu cầu nhưng không có nhu cầu thì cũng không có sản xuất. Nhu cầu của con người tăng lên không ngừng, do đó mà con người luôn luôn phát triển sản xuất vì muốn nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất, giảm nhẹ lao động. Vì vậy có thể nói, trong quá trình hoạt động, trước hết và quan trọng hơn cả là hoạt động lao động sản xuất, bộ óc và bàn tay con người không ngừng hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bộ óc là cơ sở, là nguồn vật chất vô tận cho những hoạt động ngày càng phức tạp, tinh vi, đa dạng, phong phú của con người, đưa đến sự thay đổi liên tục cơ sở vật chất và kỹ thuật của xã hội. Sự phát triển hoàn thiện không ngừng của trí tuệ con người đã được thể hiện bằng việc truyền đạt, tàng trữ những tri thức lý luận và kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác và được ghi nhận nhân cách cụ thể, trước hết ở sự biến đổi của công cụ sản xuất. Hay nói cách khác, sức mạnh trí tuệ con người không ngừng được vật thể hoá trong công cụ sản xuất, trong lực lượng sản xuất nói chung. Tính vô tận của trí tuệ con người được biểu hiện ở sự biến đổi không ngừng ở tính đa dạng, phong phú vô cùng tận của công cụ sản xuất trong quá trình phát triển của xã hội. Những cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã và đang diễn ra trong lịch sử xã hội loài người là những nấc thang đánh dấu sự phát triển ngày càng cao hơn của công cụ sản xuất: từ lửa đến công cụ sản xuất thủ công, rồi công cụ cơ khí máy móc và công nghệ trí tuệ ngày nay.. Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng con người với bàn tay và khối óc của mình là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng bên cạnh vai trò con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong lực lượngsản xuất của xã hội, con người còn là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, cc sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sáng tạo ra lịch sử của xã hội loài người. Kết quả là xã hội loài người đã bước từ thời đại văn minh này sang thời đại văn minh khác cao hơn, trong quá trình lịch sử tự nhiên. Mặt khác khi sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Các Mác đã khẳng định: sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trước hết có ý nghĩa là “sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân”(6). Bởi vậy theo Các Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hoá để con người sống với cuộc sống đích thực của mình. Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ có con người-yếu tố qua ... đã nhận thức được vấn đề này. Và kết quả là sự ra đời của những nước công nghiệp mới ở châu á. Suốt 40 năm qua, các nước này đã đầu tư cho giáo dục ngày một tăng. Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục trong ngân sách nhà nước ở cộng hòa Triều Tiên năm 1972 là 13,9%, năm 1981 tăng 17,9%, năm 1983 tăng lên 21,6%. Trong 30 năm từ 1952 đến 1981 ở Đài Loan tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí giáo dục tăng hơn 90 lần. Hoặc như ở Singapore, hiện nay kinh phí giáo dục chiếm 4% giá trị GDP, mấy năm nữa sẽ lên đến khoảng 6% ngang với mức của các nước phát triển phương Tây. Những con số, ở một mức độ nào đó tự nó đã giải thích rằng không phải ngẫu nhiên mà trong một tời gian dài một loạt các nước quanh ta đã vươn lên trở thành “ những con rồng châu á”. Đó là do kinh nghiệm của các nước đi trước, còn ở Việt Nam thì sao? Trong nhiều năm qua, nhà nước ta đã chú ý phát triển nguồn lực con người bằng những chính sách, biện pháp kịp thời, khá hợp lý tuy không tránh khỏi một số hạn chế do điều kiện kinh tế hạn hẹp. Thử đi sâu vào một trong những chính sách đó- chính sách phát triển giáo dục -đào tạo; từ đó rút ra nhận xét, tìm ra bước đi tiếp theo để hoàn thành cuộc “ cách mạng con người” ở Việt Nam. Có thể khái quát tình hình giáo dục ở Việt Nam như sau: _ Quy mô giáo dục không ngừng được tăng lên, liên tục phát triển ở các ngành học và cấp học. Chẳng hạn, quy mô đào tạo sinh viên đại học và cao đẳng có nhiều biến động lớn. Hình thức đào tạo cao học của ta rất phong phú: chính quy tập trung, tại chức và ngắn hạn...Tỷ lệ sinh viên đại học, cao đẳng trong độ tuổi đi học của Việt Nam là 2,3_2,5%, cao hơn mức 2% của Trung Quốc nhưng thấp hơn so với mức16% của Thái Lan, 40% của Hàn Quốc. _ Hệ thống giáo dục được mở rộng: số trường học tăng nhanh, mỗi làng xã có ít nhất một trường tiểu học hoặc trung học cơ sở. Số trường phổ thông trong cả nước liên tục tăng từ năm 1991-1992 đến năm 1994-1995 là 16%. Trước tình hình phải tăng số lượng người có trình độ chuyên môn cao, nhà nước chủ trương phát triển hệ thống đào tạo đại học và cao đẳng. Tính đến năm 1994, Việt Nam đã có 109 trường đại học, cao đẳng và đào tạo hơn 200 ngành học. Tuy nhiên so với tiêu chuẩn quốc tế thì hầu hết các trường đại học của Việt Nam còn nhỏ bé. _ Trong chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, hình thức giáo dục tại chức được nhà nước quan tâm chú ý đặc biệt. Hiện nay đã có khoảng 200 trung tâm đào tạo nghề theo các chương trình ngắn hạn và dài hạn, nhưng hàng năm mới chỉ đáp ứng được 15% nhu cầu của người học. _ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được phát triển. Tính đến cuối năm1994, đã có 1900 sinh viên, 394 sinh viên cao học, 715 nghiên cứu sinh, 298 thực tập sinh đang học tập nghiên cứu tại 25 nước trên thế giới. Để có vốn đầu tư phát triển giáo dục Việt Nam đã kêu gọi các tổ chức quốc tế tài trợ và cho vay vốn. Trong chu kỳ 1991-1995, UNICEF đã hỗ trợ 10 triệu USD để nâng cấp các nhà trẻ, mở thêm các trung tâm dạy nghề. Chính phủ Việt Nam đã vay của Nhật Bản từ nguồn ODA thời kỳ 1993-1995 là 1431,02 triệu yên, của ngân hàng thế giới 70 triệu USD để nâng cấp và cải tạo một số trường học lụp xụp. Ngoài ra ngân hàng thế giới còn cam kết cho Việt Nam vay 60 triệu USD thời kỳ 1995-1998 để đầu tư phát triển trường ĐH Quốc gia HN và ĐH Quốc gia thành phố HCM. Có thể nói hợp tác trong lĩnh vực khoa học và giáo dục là tiền đề nâng đỡ Việt Nam vượt qua những khó khăn về vốn, khắc phục các mặt yếu kém về chương trình, về công nghệ giáo dục, tăng cường sự hiểu biết giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. _ Từ năm 1990, ngân sách giáo dục của Việt Nam đã ở mức 10-11% tổng ngân sách hàng năm của nhà nước. So với những năm trước đây, ngân sách này đã tăng nhưng cũng mới chỉ đáp ứng được 50% yêu cầu của ngành giáo dục. Giá trị thực tế bình quân đầu người về ngân sách giáo dục của Việt Nam vào khoảng 7,7 USD chỉ bằng 1/29 của Hàn Quốc, 1/22 của Malaixia và 1/8 của Thái Lan. Tuy nhiên so với các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp như Việt Nam thì nền giáo dục Việt Nam vẫn được xếp vào loại khá. Mặc dù vậy sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam còn bộc lộ một số mặt yếu kém như: _ Mô hình giáo dục -đào tạo đa ngành và chuyên môn hẹp đã không thích nghi kịp xu thế đổi mới, không phản ứng nhạy bén trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đào tạo ngành nghề không tương xứng với đòi hỏi khắt khe của thi trường lao động. Nhiều năm xảy ra sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng... _ Cùng với nó là cơ cấu đào tạo tạo không hợp lý giữa đào tạo đại học và đào tạo nghề. Có dự báo cho rằng tương lai Việt Nam sẽ thiếu các nhà toán học, vật lý học và các nhà khoa học khác. Lực lượng nghiên cứu cơ bản thiếu sẽ ngăn cản khả năng tiếp thu công nghệ và tri thức mới. _ Chất lượng giáo dục cũng là vấn đề đáng phải quan tâm. Trước hết cần khẳng định, bộ phận học sinh giỏi của Việt Nam không thua kém các nước khác. Điều đó được chứng minh qua các kỳ thi OLEMPIC Quốc tế về toán học, tin học, vật lý học... Nhưng những năm gần đây chất lượng giáo dục ở nhiều cấp bị giảm sút, theo số liệu của Bộ giáo dục và đào tạo cứ 1000 học sinh năm học 1986-1987 thì chỉ có 500 em tốt nghiệp tiểu học. Chủ yếu là do học sinh bỏ học và lưu ban. Nguyên nhân là do đời sống của đông đảo đội ngũ giáo viên thấp dẫn đến tình trạng bỏ dạy, chân trong chân ngoài, những học sinh giỏi không thích nghi vào sư phạm. Theo đánh giá của Bộ GD và ĐT, thì giáo viên không đủ tiêu chuẩn ở mức 60-70% cũng theo thống kê của bộ thì chỉ có 10% giáo viên có nức sống tương đối khá, 60% có mức sống trung bình, 30% có mức sống thấp. Ngoài ra, chất lượng giáo dục giảm sút còn do tình trạng thiết bị học tập nghèo nàn, thiếu thốn, công nghệ lạc hậu. Có thể nói giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn lao, trước yêu cầu đổi mới kinh tế-xã hội, trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước sức ép về nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Trong 20 năm tới, giáo dục Việt Nam phải thực hiện được các mục tiêu sơ bản là nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài theo hướng khắc phục những hạn chế trong thời gian qua, trên cơ sở nỗ lực của bản thân và kinh nghiệm, cùng sự giúp đỡ của các nước phát triển. Muốn vậy nhà nước phải có các chính sách, biện pháp phù hợp như: _ Tăng ngân sách giáo dục và đào tạo, sử dụng ngân sách đó một cách có hiệu quả. Kể từ năm 1996, mỗi năm ngân sách giáo dục phải tăng 1% để đạt được mức trung bình của khu vực vào năm 2005. _ Đồng thời, nhà nước phải chăm lo đến đời sống của đội ngũ giáo viên, cải thiện chế độ tiền lương, tăng phụ cấp cho giáo viên để giáo viên có thể nâng cao vị trí xã hội của mình. _ Mặt khác, phải chú ý đào tạo các ngành kỹ thuật, công nghệ nhiều hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. _ Nâng cao chất lượng của các bậc tiểu học, làm tiền đề vững chắn cho chất lương của các cấp học tiếp sau. Những phân tích trên đây mới chỉ đề cập đến phát triển giáo dục và đào tạo - một yếu tố một cơ sở để con ngươi Việt Nam có thể thực hiện vai trò của mình. Vì vậy tồn tại song song với phát triển giáo dục, nhà nước ta còn phải thực hiện những nhiệm vụ cấp bách sau đây: _ Một là, căn cứ vào yêu cầu phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ, cần tổ chức bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. _ Hai là, cần trả lương đúng và đủ cho người lao động, trong đó chú ý đến đội ngũ cán bộ khoa học. Cần nhấn mạnh rằng, bản thân tiền lương không đơn giản chỉ là việc trả công, mà nó còn tái sản xuất ra sức lao động ( nhiều hay ít), kích thích những phẩm chất (tích cực hay tiêu cực) của người lao động. _ Ba là, tiến hành đào tạo bồi dưỡng lại lực lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng mới theo chuyên ngành nhất định. Trong đó, bảo đảm sự cân đối và đồng bộ giữa lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động khoa học. _ Bốn là, tiến hành một cách thường xuyên đồng bộ hoạt động giáo dục đối với người lao động về các mặt: chính trị-tư tưởng, lợi ích, ý thức pháp luật, trách nhiệm công dân, truyền thống. Trong điều kiện hiện nay, chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất mà không thực hiện công tác giáo dục thì sẽ dẫn đến sai lầm, tại hại, làm hư hỏng con người, thậm chí cả một thế hệ người. C.Mác đã từng nhắc nhở chúng ta, trong phát triển kinh tế phải gắn “sự nghiệp giải phóng con người với cuộc đấu tranh chống lại biểu hiện thực tiễn cực đoan của sự tha hóa con người”(7). Không nghi ngờ gì rằng, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động đến từng cá nhân, từng gia đình và mỗi tập thể của chúng ta. Trong xã hội hiện nay, có tình trạng một số người có kinh tế khá, thậm chí là giàu có nhưng vẫn tham ô, móc ngoặc, ăn cắp, buôn lậu. Trái lại, một số người nghèo, thậm chí rất nghèo nhưng không chịu lao động chân chính, chuyên dùng thủ đoạn lừa bip, ăn cắp... Bên cạnh đó, còn một lớp người (thường là trẻ tuổi) không chịu học hành, làm việc, chỉ lo ăn chơi và từ đây dẫn đến tội phạm. _ Năm là, phải nâng cao thể lực cho thanh niên. Mặc dù đây là một vấn đề đòi hỏi phải có thời gian để giải quyết trên cơ sở nâng cao dần mức sống của nhân dân về vật chất cũng như về tinh thần. Trước mắt, cần tập trung giải quyết cho được các mục tiêu của chương trình chăm sóc, bảo vệ trẻ em đến năm 2000, nhất là các mục tiêu giảm đáng kể tỷ lệ suy dinh dưỡng: đầu tư nâng cao chất lượng của chương trình giáo dục thể chất và y tế học đường; đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể trong thanh thiếu niên, tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên duy trì phong trào “ khoẻ vì ngày mai lập nghiệp”, “khoẻ để bảo vệ Tổ quốc”. Thực hiện những nhiệm vụ trên đây có nghĩa là về cơ bản nhà nước ta đã hoàn thành cuộc “ cách mạng con người ”, biến con người Việt Nam thành nguồn lực quyết định đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đi đến thành công. KẾT LUẬN Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và đặc biệt đang nổi lên ở khu vực Đông á. Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển đủ mạnh nguồn nhân lực. Sự đầu tư ấy được hiểu cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu quả nhất là đầu tư cho giáo dục. Khi nghiên cứu quan hệ giữa GDP và các yếu tố của nguồn nhân lực, người ta thấy sự phát triển của nguồn nhân lực càng sớm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao. Thực tế đã chứng minh, do phát triển nguồn nhân lực mà Hàn Quốc đã mau chóng trở thành nước công nghiệp, có sự hội nhập thần kỳ ở khu vực Đông á và trở thành một điểm sáng bên Nhật Bản siêu cường. Đồng thời, xuất phát từ tư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự nghiệp giải phóng của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta hiện nay chính là một cuộc cách mạng- cách mạng con người. Trong “Tư bản”, C.Mác đã khẳng định: “để sản xuất ra những con người toàn diện” cần phải có một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên tiến. Và ông coi tạo ra những thành tưu kinh tế xã hội đó “không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện” (8) - những chủ nhân thực sự của một xã hội vì con người. Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì mục tiêu phát triển con người. Chỉ có như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới trở thành sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này. --------------------------- Chú thích: (1) C.Mac-F.Anghen tuyển tập, tập VI-NXB Sự thật Hà Nội- 1981, trang 409. (2) C.Mac-F.Anghen tuyển tập, tập I- NXB Sự thật Hà Nội- 1981, trang 268. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị lần thứ tư. Ban chấp hành TW khoá VII, trang 5. (4) C.Mac-F.Anghen tuyển tập, tập I. NXB Sự thật Hà Nội- 1981, trang 13,14. (5) C.Mac-F.Anghen tuyển tập, tập VI. NXB Sự thật Hà Nội- 1981, trang 257. (6) C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 26, phần II. NXB Chính trị Quốc gia Hà nội- 1995, trang 168. (7) C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 1. NXB Chính trị Quốc gia Hà nội- 1995, trang 561. (8) C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 23. NXB Chính trị Quốc gia Hà nội- 1995, trang 688. TRIẾT HỌC MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 2 Chương I 5 Chương II 8 Kết luận 19 Chú thích 20 ------------------------- DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Đình Toàn- Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất tạp chí triết học số 1 (3/1993). Hồ Anh Dũng- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại... tạp chí triết học số 1 (3/1993). Nguyễn Thế Nghĩa- Nguồn nhân lực...CNH, HĐH đất nước tạp chí triết học số 1 (2/1996). Nguyễn Thanh- Mục tiêu con người trong sự nghiệp CNH, HĐH... tạp chí triết học số 5 (10/1996). Đặng Hữu Toàn- Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và... tạp chí triết học số 1 (2/1997). Trần Hữu Tiến- Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của Mác tạp chí cộng sản 1/1994. Võ Đại Lược- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đầu năm 2000. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực.
File đính kèm:
- tieu_luan_con_nguoi_viet_nam_trong_qua_trinh_cong_nghiep_hoa.doc