Triết học giáo dục cơ sở để đổi mới và phát triển giáo dục

Giáo dục là hiện tượng đặc thù chỉ có

ở xã hội loài người (Karl Marx). Giáo

dục tác động rất lớn đối với phát triển

xã hội. Khi bàn về giáo dục, Hồ Chí

Minh thường nhắc đến câu nói nổi

tiếng của cổ nhân: “Mười năm trồng

cây, trăm năm trồng người”. Tổng

thống Nam Phi Nelson Mandela cũng

từng đánh giá: “Giáo dục là sức mạnh

phi thường, nó có thể thay đổi cả thế

giới này” (Education is the most

powerful weapon which you can use

to change the World)

pdf 6 trang dienloan 8040
Bạn đang xem tài liệu "Triết học giáo dục cơ sở để đổi mới và phát triển giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết học giáo dục cơ sở để đổi mới và phát triển giáo dục

Triết học giáo dục cơ sở để đổi mới và phát triển giáo dục
1
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC 
TRIẾT HỌC GIÁO DỤC 
CƠ SỞ ĐỂ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 
HÀ LY 
Triết học giáo dục là cơ sở để xây dựng hay đổi mới giáo dục của một quốc gia. 
Bài viết điểm lại lịch sử hình thành phát triển của giáo dục học và triết học giáo 
dục trên thế giới. Qua đó rút ra được những vấn đề đáng suy ngẫm trong quá 
trình thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục Việt Nam. 
1. GIÁO DỤC VÀ TRIẾT HỌC GIÁO 
DỤC 
Giáo dục là hiện tượng đặc thù chỉ có 
ở xã hội loài người (Karl Marx). Giáo 
dục tác động rất lớn đối với phát triển 
xã hội. Khi bàn về giáo dục, Hồ Chí 
Minh thường nhắc đến câu nói nổi 
tiếng của cổ nhân: “Mười năm trồng 
cây, trăm năm trồng người”. Tổng 
thống Nam Phi Nelson Mandela cũng 
từng đánh giá: “Giáo dục là sức mạnh 
phi thường, nó có thể thay đổi cả thế 
giới này” (Education is the most 
powerful weapon which you can use 
to change the World). 
Rõ ràng, một nền giáo dục chậm tiến 
hoặc lạc hậu không thể song hành 
cùng với một xã hội phát triển, hiện 
đại. 
Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan 
tâm đến giáo dục, xem giáo dục là 
quốc sách. Do đó, giáo dục Việt Nam 
đã có bước tiến dài cả về chiều rộng 
lẫn chiều sâu. Tuy nhiên, giáo dục 
Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng nhu 
cầu phát triển. Yêu cầu đổi mới, cải 
cách giáo dục ngày càng cấp thiết. 
Muốn đổi mới giáo dục trước hết phải 
trả lời những câu hỏi do bản thân giáo 
dục đặt ra. Chẳng hạn như học cái gì? 
Dạy cái gì? Dạy những cái nhà trường 
cần dạy hay dạy những cái mà người 
học cần học? Học để làm gì (mục đích) 
và học như thế nào (phương pháp)?... 
Đó là những câu hỏi được đặt ra 
không phải bây giờ mà ngay từ buổi 
bình minh của giáo dục học. Tuy 
nhiên, bản thân khoa học giáo dục lẫn 
Hà Ly. Học viện Chính trị Khu vực II. Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
HÀ LY – TRIẾT HỌC GIÁO DỤC - CƠ SỞ ĐỂ ĐỔI MỚI 
2
khoa học thực nghiệm cũng đành thúc 
thủ nhường lại nhiệm vụ vẻ vang này 
cho ngành khoa học mới, giáp ranh 
giữa triết học và giáo dục học, gọi là 
“Triết học giáo dục” (Philosophy of 
Education hoặc Educational Philosophy). 
Thực ra, triết học và giáo dục vốn gắn 
bó với nhau ngay từ thời cổ đại. Các 
nhà triết học Hy Lạp cổ đại như 
Socrate, Platon, Aristotle... đã vận 
dụng quan điểm triết học của mình để 
lý giải những vấn đề về giáo dục. 
Cũng vậy, các nhà triết học phương 
Đông như Khổng Tử, Lão Tử, Mặc 
Tử... đã lý giải những vấn đề giáo dục 
theo quan điểm triết học của họ. 
Nhưng rồi sau đó, khi giáo dục trở 
thành môn học độc lập thì nó đã tự 
chia tay với triết học. Đến đầu thế kỷ 
XX, trong bối cảnh phát triển nhanh 
chóng của xã hội hiện đại, nếu giáo 
dục không nối lại “tình xưa nghĩa cũ” 
với triết học thì bản thân nó chẳng 
khác gì con thuyền không có phương 
hướng. Vì vậy, môn Triết học giáo dục 
đã ra đời và nhanh chóng phổ biến ở 
nhiều nước trên thế giới. 
Theo từ điển mở Wikipedia, Triết học 
giáo dục là suy tư triết học về những 
vấn đề giáo dục bằng phương pháp, 
ngôn ngữ triết học. 
Gần đây, ở Việt Nam cũng đã xuất 
hiện một vài công trình nghiên cứu 
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng 
giáo dục. Chẳng hạn các công trình 
nghiên cứu: Triết lý giáo dục Việt Nam 
(Đề tài khoa học cấp Bộ, Phạm Minh 
Hạc chủ nhiệm, 2012); Triết học giáo 
dục Việt Nam (Thái Duy Tuyên, Nhà 
xuất bản Đại học Sư phạm, 2007); Cơ 
sở triết học của tư tưởng giáo dục Hồ 
Chí Minh (Đề tài khoa học cấp Bộ, 
Thái Duy Tuyên chủ nhiệm)... Những 
công trình trên đã làm rõ tính cấp thiết 
của môn khoa học giáp ranh này, 
nhưng chưa đề cập và chưa làm rõ 
ảnh hưởng của triết học giáo dục đối 
với giáo dục học. Dẫu sao đó cũng là 
những viên gạch đầu tiên để xây nên 
ngôi nhà triết học giáo dục của Việt 
Nam. 
Mới nhìn qua, đã có thể thấy các công 
trình này có tên gọi khác nhau. “Triết 
học giáo dục” hay “Triết lý giáo dục”? 
Gọi như thế nào cũng có lý của nó, 
nhưng cần lưu ý rằng “Triết học giáo 
dục” là bộ môn khoa học ra đời từ đầu 
thế kỷ XIX, đã có tên gọi thống nhất. 
Có lẽ trước khi bàn về “Triết học giáo 
dục Việt Nam” nên xác định tên gọi 
của bộ môn khoa học này là “Triết học 
giáo dục”. Lý do như sau: 
+ Khái niệm “Triết học” 哲学 và “Triết 
lý” 哲理. 
“Triết học”, “Triết lý” đều là từ Hán - Việt. 
Về chữ “triết” 哲 
Theo Tự điển hình tượng 形象字典 (Trung 
Quốc) chữ “triết” có quá trình hình 
thành, diễn biến qua nhiều thời kỳ và 
định hình ở chữ viết ngày nay: 哲. 
Chữ “triết” 哲 được cấu tạo theo thể 
tượng thanh và tượng hình. Âm “triết” 
là đọc theo chữ “triết” 折, hình tượng 
tay cầm rìu chia sự vật làm đôi (triết 
trung là chia sự vật làm đôi và đứng ở 
giữa), còn bộ bên cạnh được thay đổi, 
đầu tiên là bộ “thiệt” 舌, đến bộ “ tâm” 
心 , bộ “nhật”日 và cuối cùng là bộ 
“khẩu”口. “Khẩu”, “thiệt” là chỉ về phát 
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 6 (202) 2015 
3
ngôn, phân tích; “tâm” chỉ tâm trạng, 
tâm lý, phân tích sao cho hợp tình, 
hợp lý; “nhật” chỉ sự minh bạch, sáng 
suốt như ban ngày. 
+ Chữ “triết” 哲 vừa là động từ vừa là 
danh từ. 
- Động từ. Theo Thuyết văn giải tự说
文解字 : “Triết” có nghĩa là hiểu biết 
(triết, tri dã哲知也), ví dụ như triết tư, 
triết học, triết lý, triết ngôn. 
- Danh từ. Theo Nhĩ nhã: “triết” là trí 
tuệ (triết, trí tuệ dã 哲智慧也), ví dụ như 
đại triết, cổ triết, tiên triết. 
Tóm lại: Triết học là thuật ngữ được 
người Nhật tên là Anaximé dịch từ 
tiếng Anh “Philosophy”, sau đó được 
Tôn Trung Sơn sử dụng vào ngôn 
ngữ Trung Quốc, dần dần về sau 
được sử dụng rộng rãi. Như vậy là 
thuật ngữ Philosophy từ thời Platon ở 
Hy Lạp cổ đại được dịch là “triết học” 
mới xuất hiện ở đầu thế kỷ XX. 
Triết lý: thuật ngữ “triết lý” xuất hiện 
đầu tiên trong sách Luận hành, thiên 
Loạn Long của Vương Sung đời nhà 
Đông Hán. Thuật ngữ “triết lý” đã xuất 
hiện trong văn tự cổ của Trung Quốc 
cách đây hai nghìn năm. “Triết lý” là 
đạo lý, là lý luận có tính triết học. 
2. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC GIÁO DỤC 
THẾ GIỚI 
Tác phẩm Die Padagogik ALS System 
(1848) của Johann Karl Friedrich 
Rosenkranz (1805 - 1879), được nữ 
giáo dục gia người Mỹ A.C Brackett 
dịch ra tiếng Anh năm 1886 và đổi tên 
sách là Triết học giáo dục (Philosophy 
of education). Khái niệm “triết học giáo 
dục” bắt đầu từ đó. 
Sách của Rosenkranz dựa trên quan 
điểm triết học của Hegel, được chia 
làm bốn phần: phần Lời tựa nói về 
“tính chất và nhiệm vụ của giáo dục và 
khoa học”; phần 1: Khái niệm chung 
về giáo dục; phần 2: Yếu tố đặc thù 
của giáo dục; phần 3: Hệ thống tư 
tưởng giáo dục cụ thể. 
Triết học giáo dục phương Tây có ảnh 
hưởng sớm nhất ở Trung Quốc có lẽ 
bắt đầu từ J. Dewey, nhà triết học 
theo chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism) 
nổi tiếng của Mỹ. Năm 1919 Dewey 
đến Trung Quốc để diễn thuyết nhiều 
buổi về triết học giáo dục. Bài giảng 
của Dewey sau đó đã được in thành 
sách xuất bản với tên gọi là Triết học 
giáo dục. Vấn đề trung tâm trong quan 
điểm triết học giáo dục của Dewey là: 
“Giáo dục không phải là sự chuẩn bị 
cho cuộc sống mà chính là bản thân 
cuộc sống” (Education is not a 
preparation for life, but it is life itselft). 
Cuộc sống luôn thay đổi, cho nên 
không có chân lý nào có thể dùng suốt 
đời được. Sau này Dewey lại từ Trung 
Quốc sang Nhật Bản để tiếp tục 
thuyết trình về triết học giáo dục của 
ông. 
Ảnh hưởng của Dewey đối với xã hội 
Trung Quốc lúc bấy giờ rất lớn. Môn 
triết học giáo dục được xem trọng, 
nhiều công trình nghiên cứu về triết 
học giáo dục của các tác giả Trung 
Quốc ra đời. Ví dụ như Triết học giáo 
dục (1925) của Trương Hoài, Triết học 
giáo dục (1933) của Khương Lục, 
Triết học giáo dục (1935) của Ngô 
Tuất Thắng... Sau khi nước Cộng hòa 
Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949), 
HÀ LY – TRIẾT HỌC GIÁO DỤC - CƠ SỞ ĐỂ ĐỔI MỚI 
4
triết học giáo dục bị loại bỏ và bị xem 
là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. 
Mãi đến những năm 1980, sau thời kỳ 
“Đại cách mạng văn hóa”, triết học 
giáo dục mới được phục hồi. Năm 
1982 Trần Hữu Tuấn chủ biên Triết 
học giáo dục phương Tây hiện đại; 
năm 1985 Hoàng Tề viết Triết học 
giáo dục sơ cảo, Triết học giáo dục; 
Phó Thống Tiên, Trương Văn Úc là 
tác giả Triết học giáo dục (1986); 
Tang Tân Dân với Triết học giáo dục 
đương đại (1988), Chu Hạo Ba bàn về 
Triết học giáo dục (2000) Như vậy 
có thể thấy rằng khái niệm “triết lý” là 
khái niệm bản địa, truyền thống ở 
Trung Quốc, nhưng ngay người Trung 
Quốc cũng không sử dụng khái niệm 
“triết lý giáo dục”. Lý do là vì “Triết học 
giáo dục” là môn khoa học, đã được 
định hình, phổ biến ở phương Tây và 
nhiều nước trên thế giới. 
Giáo dục Việt Nam không thể tách rời 
khỏi giáo dục thế giới cho nên triết 
học giáo dục Việt Nam cũng cần phê 
phán tiếp thu những yếu tố hợp lý của 
triết học giáo dục thế giới, trước hết là 
từ tên gọi. 
Nhìn lại hai thế kỷ qua, có thể nói các 
trào lưu triết học phương Tây mọc lên 
như nấm sau cơn mưa. Có thể kể ra 
một vài trào lưu chủ yếu được áp 
dụng trong triết học giáo dục như sau: 
- Chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism) 
- Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism) 
- Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism) 
- Hiện tượng học (Phenomenology) 
... 
Các trào lưu triết học giáo dục hiện 
đại đề cập nhiều vấn đề về giáo dục. 
Tuy nhiên có ba vấn đề quan trọng 
mà bất cứ trường phái triết học nào 
cũng không thể không quan tâm, đó 
là bản chất, mục đích và giá trị của 
giáo dục. Chủ nghĩa thực dụng là một 
trong những trào lưu triết học ảnh 
hưởng nhiều nhất ở Mỹ và Âu châu, 
do đó nếu như làm rõ quan điểm triết 
học giáo dục của chủ nghĩa thực 
dụng, đồng thời qua đó đối chiếu với 
các trào lưu triết học khác thì có thể 
có cái nhìn sơ bộ, tổng quan về triết 
học giáo dục phương Tây thời kỳ hiện 
đại. 
Chủ nghĩa thực dụng ra đời ở Mỹ vào 
năm 1870. Những đại biểu chủ yếu là 
Charles Sanders Pierce (1839 - 1914), 
William James (1842 - 1910) và John 
Dewey (1859 - 1952). Nếu Pierce và 
James đặt cơ sở lý luận, thì Dewey là 
người xây dựng toàn bộ ngôi nhà của 
chủ nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa thực 
dụng có nguồn gốc xa xưa từ triết học 
“Sophiste” thời cổ đại Hy Lạp, nhưng 
trực tiếp nhất là chịu ảnh hưởng của 
Berkeley, Hume, Auguste Comte và 
Schaupenhauer. Chủ nghĩa thực dụng 
trong tiếng Anh là Pragmatism, Pragma 
có nghĩa là “hành động”. Về triết học, 
đa nguyên luận và tương đối luận là 
bản thể luận và nhận thức luận của 
chủ nghĩa thực dụng. John Dewey là 
nhà triết học đồng thời cũng là nhà 
triết học giáo dục nổi tiếng của Mỹ 
(Ông đã viết 36 cuốn sách, hơn 300 
bài nghiên cứu về các lĩnh vực như 
triết học, triết học giáo dục, văn hóa, 
xã hội...). 
Nước Mỹ không bị ràng buộc bởi xã 
hội phong kiến cho nên khẩu hiệu “dân 
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 6 (202) 2015 
5
chủ”, “công bằng”... được hô to hơn 
bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Đó 
cũng là một trong những đặc điểm của 
triết học giáo dục của Dewey cũng 
như của trường phái thực dụng (John 
Dewey, 2008). Khi bàn về quan hệ 
“thầy-trò”, bàn về vấn đề trung tâm 
của giáo dục, Dewey cho rằng trung 
tâm của giáo dục không phải là “thầy” 
mà là “trò”. Thầy là bạn của trò, thầy 
xưng hô với trò là “I” (tôi) và “You” 
(bạn) chứ không phải “I” và “thing”. 
Thầy không xem trò như đồ vật, như 
cái thùng muốn nhét cái gì thì cứ nhét. 
Chủ trương này tuy cũng có tính hợp 
lý, nhưng trong thực tế đã xảy ra tình 
trạng thầy lơ là trách nhiệm của mình, 
còn trò giảm lòng tin vào thầy. Nhiều 
trường phái triết học giáo dục khác đã 
phản đối chủ nghĩa thực dụng ở điều 
này. 
Chủ nghĩa thực dụng xem hành động 
(pragma) có tầm quan trọng bậc nhất 
cho nên quan niệm rằng học tập là để 
hành động, để “làm”, do đó học và làm 
là thống nhất. Dewey cho rằng: “Giáo 
dục là cuộc sống”, “Nhà trường là xã 
hội”, cuộc sống và xã hội luôn thay đổi 
cho nên không thể có “chân lý” hay “tri 
thức” nào nhất thời mà có thể sử dụng 
suốt đời được. Cho nên “giáo dục là 
một quá trình”, “giáo dục là sự sinh 
trưởng”. 
Dewey chú trọng đến hiệu quả, đến 
thực tiễn, khuyến khích tính năng 
động, sáng tạo, tránh tình trạng xơ 
cứng giáo điều. Tuy nhiên chủ nghĩa 
thực dụng có phần xem nhẹ trang bị 
cho người học tri thức, văn hóa mà 
nhân loại đã dày công tích lũy. Do đó 
chủ nghĩa yếu tố đã lên tiếng phản đối 
chủ trương này và cho rằng muốn học 
gì thì học nhưng không thể không học 
những tri thức văn hóa cơ bản mà 
nhân loại đã tích lũy. 
Dewey còn cho rằng giáo dục không 
có mục đích, nói đúng hơn là giáo dục 
không có mục đích bên ngoài mà chỉ 
có mục đích tự thân, bên trong. Nhiều 
trường phái triết học giáo dục khác 
cũng lên tiếng cho rằng nhiệm vụ chủ 
yếu của giáo dục là giáo dục năng lực 
tư duy lý tính cho người học chứ 
không phải đào tạo ra những sản 
phẩm nhằm đáp ứng cho nhu cầu bên 
ngoài nào đó. Chẳng hạn như giáo 
dục ở chế độ phong kiến của các 
nước Đông Á trước đây. Nhiều học 
giả Trung Quốc cho rằng thực ra giáo 
dục thời phong kiến không phải đào 
tạo ra nhân tài mà chỉ đào tạo ra nô tài 
cho giai cấp thống trị. 
Triết học giáo dục của chủ nghĩa thực 
dụng đến những năm 1930 đã có 
những biểu hiện suy thoái. 
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức vào 
những năm 1920. Sau Chiến tranh thế 
giới thứ II, chủ nghĩa hiện sinh ảnh 
hưởng nhiều ở Pháp và các nước Tây 
Âu. Những năm 1960 ảnh hưởng 
nhiều ở Mỹ. Những nhà triết học tiêu 
biểu của chủ nghĩa hiện sinh như 
Martin Heidegger (1889 - 1976), Karl 
Jaspers (1883 - 1969), Jean Paul 
Sartre (1905 - 1980), Rollo May (1909 
- 1994)... cho rằng đối tượng của triết 
học là con người và ngoài con người 
ra không có gì đáng bàn. Con người 
và cuộc sống không thể dùng lý tính 
HÀ LY – TRIẾT HỌC GIÁO DỤC - CƠ SỞ ĐỂ ĐỔI MỚI 
6
để nhận thức được, cho nên triết học 
của chủ nghĩa hiện sinh là triết học phi 
lý tính (Irrationalism)(1). Chủ nghĩa 
hiện sinh không quan niệm bản tính là 
cái vốn có như Mạnh Tử, Tuân Tử, 
mà cho rằng “tồn tại có trước bản 
chất” (L`existence precede l`essence). 
Con người trong quá trình tồn tại tự 
mình tạo ra bản chất của mình. Do đó 
về giáo dục, chủ nghĩa hiện sinh kêu 
gọi cần phải quan tâm đến tính ưu việt 
của cá nhân, cá tính. 
Trên đây chỉ là những nét chủ yếu của 
triết học giáo dục phương Tây thời kỳ 
hiện đại. Trong đó có những nhân tố 
hợp lý cũng như chưa hợp lý. Dẫu 
sao đó cũng là thành quả tư tưởng 
triết học giáo dục của nhân loại, mà 
triết học giáo dục Việt Nam cần phải 
kế thừa và suy ngẫm. 
Ở Việt Nam, từ thời xưa, các chế độ 
phong kiến đều rất xem trọng giáo dục. 
Khoa thi đầu tiên kén chọn nhân tài 
trong lịch sử chế độ khoa cử Việt Nam 
đã được tổ chức vào năm Ất Mão 
1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông, 
sau khi nhà Lý mở ra một nền độc lập 
lâu dài cho dân tộc. Chế độ thi cử kéo 
dài mãi đến tận năm Kỷ Mùi 1919 
dưới triều nhà Nguyễn(2). Truyền 
thống xem trọng giáo dục và nhân tài 
của dân tộc được thể hiện ở những 
tấm bia đề danh tiến sĩ ở Văn miếu 
Quốc Tử Giám(3). Truyền thống xem 
trọng giáo dục cũng được kết tinh 
trong bài văn bia Hiền tài là nguyên 
khí của quốc gia của Thân Nhân 
Trung soạn dưới triều vua Lê Thánh 
Tông. Triết học giáo dục Việt Nam 
hiện nay có cơ sở vững chắc là truyền 
thống xem trọng giáo dục của dân tộc, 
đồng thời có thể tiếp thu những nhân 
tố hợp lý của triết học giáo dục thế 
giới. Và việc xây dựng triết học giáo 
dục ở Việt Nam là cơ sở tất yếu để 
đổi mới giáo dục, để giáo dục Việt 
Nam phát triển theo kịp các nước tiên 
tiến trên thế giới.  
CHÚ THÍCH 
(1) “Phi lý tính” (Irrationalism) chứ không phải “Phản lý tính” (Anti-rationality). 
(2) Chế độ khoa cử của Trung Quốc bắt đầu từ năm 609 và kết thúc năm 1906. Chế độ khoa 
cử Triều Tiên bắt đầu từ năm 958 và kết thúc năm 1894. Nhật Bản chịu nhiều ảnh hưởng 
văn hóa của Trung Quốc nhưng Nhật Bản không có chế độ khoa cử và chế độ hoạn quan 
như ở Trung Quốc. 
(3) Bia đề danh tiến sĩ từ thời Lê sơ đến thời Mạc (1442 - 1779) gồm 82 tấm được UNESCO 
công nhận ngày 9/3/2010. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. John Dewey (Phạm Anh Tuấn dịch). 2008. Dân chủ và giáo dục. Hà Nội: Nxb. Tri thức. 
2.  
tpo. 

File đính kèm:

  • pdftriet_hoc_giao_duc_co_so_de_doi_moi_va_phat_trien_giao_duc.pdf