Tư tưởng của C. Mác về chủ nghĩa tư bản

 Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác đã trình bày nhiều tư tưởng quan trọng về chủ nghĩa tư

bản. Một số tư tưởng của C.Mác trong tác phẩm đó không chỉ đúng ở thời chủ nghĩa tư bản hình

thành, mà vẫn đúng trong những điều kiện mới hiện nay; nhưng cũng có một số tư tưởng của

C.Mác trong tác phẩm đó đã bị thực tiễn vượt qua. Tư tưởng của C.Mác về sự bần cùng hóa giai

cấp vô sản, về sở hữu tư nhân, về các quy luật khách quan của chủ nghĩa tư bản, về sự suy vong

của chủ nghĩa tư bản, tuy vẫn đúng trong những điều kiện mới hiện nay nhưng cần được giải thích

bổ sung thêm.

pdf 10 trang dienloan 9580
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của C. Mác về chủ nghĩa tư bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của C. Mác về chủ nghĩa tư bản

Tư tưởng của C. Mác về chủ nghĩa tư bản
 25 
Tư tưởng của C.Mác về chủ nghĩa tư bản 
Nguyễn Anh Tuấn1 
1 Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Email: nguyentuan1962@yahoo.com.vn 
Nhận ngày 27 tháng 10 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 11 năm 2017. 
Tóm tắt: Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác đã trình bày nhiều tư tưởng quan trọng về chủ nghĩa tư 
bản. Một số tư tưởng của C.Mác trong tác phẩm đó không chỉ đúng ở thời chủ nghĩa tư bản hình 
thành, mà vẫn đúng trong những điều kiện mới hiện nay; nhưng cũng có một số tư tưởng của 
C.Mác trong tác phẩm đó đã bị thực tiễn vượt qua. Tư tưởng của C.Mác về sự bần cùng hóa giai 
cấp vô sản, về sở hữu tư nhân, về các quy luật khách quan của chủ nghĩa tư bản, về sự suy vong 
của chủ nghĩa tư bản, tuy vẫn đúng trong những điều kiện mới hiện nay nhưng cần được giải thích 
bổ sung thêm. 
Từ khóa: C.Mác, tư bản, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: In his work Capital, K.Marx presented many important ideas about capitalism. Some of 
the ideas are true not only for the time when capitalism was being formed, but also under the 
present conditions. Yet, some other ideas have been overtaken by the reality of life. K. Marx’s 
thought on the impoverishment of the proletariat, private ownership, and the objective laws and the 
demise of capitalism, though remaining true under the current new conditions, needs further 
explanation and supplements. 
Keywords: K.Marx, capital, capitalism, socialism. 
Subject classification: Philosophy 
1. Mở đầu 
Cách đây đúng một thế kỷ rưỡi, ngày 
14/9/1867, tập 1 của tác phẩm Tư bản của 
C.Mác đã ra mắt bạn đọc. Đây là tác phẩm 
chủ yếu nhất của C.Mác, trong đó chứa 
đựng học thuyết giá trị thặng dư và sự luận 
chứng cho quan điểm duy vật về lịch sử. 
Không chỉ có vậy, tác phẩm đồ sộ này của 
C.Mác còn có giá trị lâu bền ở những chỉ 
dẫn phương pháp luận và hình mẫu áp dụng 
các phương pháp biện chứng trong nghiên 
cứu chủ nghĩa tư bản. Những nội dung lý 
luận và phương pháp luận của tác phẩm Tư 
bản đã được nhiều nhà nghiên cứu ngoài và 
trong nước phân tích. Tư bản là sự phản ánh 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
26 
đầy sáng tạo hiện thực nước Anh tư bản chủ 
nghĩa giữa thế kỷ XIX. Nhưng hiện nay, 
nước Anh và thế giới đã trải qua nhiều thay 
đổi lớn lao. Trong bài này, chúng tôi góp 
phần phân tích thêm một số tư tưởng của 
C.Mác về chủ nghĩa tư bản trong tác phẩm 
Tư bản (gồm tư tưởng về sự bần cùng hóa 
giai cấp vô sản, tư tưởng về sở hữu tư nhân, 
tư tưởng về các quy luật khách quan của 
chủ nghĩa tư bản, tư tưởng về sự suy vong 
của chủ nghĩa tư bản). 
2. Tư tưởng của C.Mác về sự bần cùng 
hóa giai cấp vô sản 
Tư tưởng về sự bần cùng hóa giai cấp vô 
sản không phải do C.Mác đề ra đầu tiên. 
Nhưng C.Mác phát triển tư tưởng đó bằng 
cách chỉ ra tính quy luật của sự bần cùng 
hóa tương đối (khi giá trị thặng dư tăng 
nhanh hơn tiền lương), theo đó, trong điều 
kiện chủ nghĩa tư bản công nghiệp (nếu gạt 
sang một bên cuộc đấu tranh giai cấp - xã 
hội của giai cấp vô sản và các yếu tố tác 
động ngược khác) thì giai cấp vô sản xét 
trong tổng thể luôn bị chi phối bởi xu 
hướng bần cùng hóa cả tương đối lẫn tuyệt 
đối. Xu hướng này ở phần lớn các nước tư 
bản chủ nghĩa phát triển không còn tác 
động vì mức sống của giai cấp vô sản tăng 
lên. Nhưng điều này mới thực quan trọng: 
tính quy luật do C.Mác phát hiện ra về sự 
gia tăng của cải của nhà tư bản nhờ tiền 
lương của nhân công làm thuê trong điều 
kiện kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa 
cổ điển đã thực sự tác động; bước chuyển 
sang công nghệ cao và hoạt động sáng tạo 
đã biến người công nhân thành bộ phận 
thực hiện vai trò phần thêm vào của cỗ 
máy; các công đoàn, các đảng cánh tả, các 
mặt trận nhân dân, các tổ chức phi chính 
phủ, các phong trào xã hội và các thiết chế 
xã hội công dân khác đang đấu tranh mạnh 
mẽ bảo vệ các quyền xã hội của con người. 
Từ đó có kết luận quan trọng: sự phồn vinh 
của một bộ phận giai cấp lao động làm thuê 
trên thế giới (ở các nước phát triển và nhiều 
nước đang phát triển) sau một thế kỷ rưỡi từ 
thời C.Mác tuy có tăng lên nhưng tăng 
chậm chạp hơn nhiều so với sự giàu có của 
nhà tư bản. Thu nhập của họ tăng lên không 
phải nhờ thiện ý và lòng tốt của nhà tư sản, 
mà nhờ cuộc đấu tranh của các lực lượng 
chống tư bản. 
Đầu thế kỷ XXI, ở các nước trước đây là 
xã hội chủ nghĩa đã có những thảo luận mới 
xung quanh tư tưởng của C.Mác và sự hiện 
thực hóa tư tưởng của ông. Ở các nước đó, 
người ta càng ngày càng thất vọng với lý 
luận của chủ nghĩa tự do. Những phỏng 
đoán từ ba chục năm trước về “sự cáo 
chung của lịch sử” và các hệ tư tưởng, về 
sự mở rộng dân chủ khắp nơi và sự toàn 
thắng của quyền con người là không đúng. 
Sự thất vọng đó đặc biệt lộ rõ sau cuộc 
khủng hoảng kinh tế toàn thế giới bắt đầu 
vào năm 2008. Nhưng trước đó, ở phần lớn 
các nước nêu trên, và trước tiên ở các nước 
tư bản phát triển, nhiều triệu chứng suy tàn 
của làn sóng tân tự do đã biểu lộ quá rõ; các 
cuộc chiến tranh vẫn liên tục diễn ra; người 
ta vẫn đang tìm kiếm lý tưởng khác với lý 
tưởng kiếm tiền và cạnh tranh. Luận chứng 
của C.Mác về khả năng tiến đến thế giới mà 
ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là 
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả” 
được nhớ lại. Và có thêm một bổ sung: tự 
do không chỉ là quyền hình thức của những 
người hưu trí đang sống khắc khoải và của 
đại gia tài chính bỏ phiếu cho ứng viên này 
hay ứng viên khác, mà là khả năng kinh tế 
và chính trị - xã hội hiện thực hóa tất cả tài 
năng sẵn có trong con người, đảm bảo sự 
Nguyễn Anh Tuấn 
 27 
phát triển các phẩm chất người của mình 
qua đối thoại, chứ không phải xung đột, với 
những người khác. 
Chúng ta đã biết về việc “đi vào văn 
minh”. Phần lớn các nước cộng hòa thuộc 
Liên Xô cũ và nhiều nước xã hội chủ nghĩa 
đã “đi vào văn minh”. Một số người ở các 
nước đó đúng là no đủ và giàu có. Một số 
người chỉ no thôi. Nhưng một số người vẫn 
đói khát như xưa. 
Chúng ta hãy xem những luận cứ truyền 
thống sau đây của những kẻ chống C.Mác. 
Theo C.Mác, giai cấp vô sản phải bị bần 
cùng hóa, nhưng thực tế ở các nước phương 
Tây họ lại trở nên sống tốt hơn nhiều. Theo 
C.Mác, giai cấp vô sản là giai cấp cách 
mạng bị các nhà tư bản bóc lột, nhưng trên 
thực tế họ lại giữ gìn hệ thống tư bản chủ 
nghĩa. Theo C.Mác, sản xuất ngày càng 
phải trở nên tập trung hơn, nhưng thực tế số 
doanh nghiệp nhỏ ở khắp nơi đều không 
ngừng tăng lên. Theo C.Mác, sở hữu tư 
nhân cần phải bị diệt vong, vậy mà nó lại 
khởi sắc, xâm nhập vào các lĩnh vực ngày 
càng mới. Theo C.Mác, chủ nghĩa xã hội sẽ 
thay thế chủ nghĩa tư bản bằng con đường 
cách mạng, và các cuộc cách mạng đó phải 
diễn ra ở những nước phát triển nhất, nhưng 
trên thực tế chúng đã nổ ra ở những nước 
phát triển thấp, bám trụ được vài thập niên 
rồi sụp đổ. Và theo C.Mác, xã hội xã hội 
chủ nghĩa sẽ có nhiều tự do và phúc lợi 
hơn, nhưng ở các nước xã hội chủ nghĩa 
trước đây người dân đã sống trong chế độ 
kiểm soát hộ khẩu chặt chẽ và thiếu thốn 
thực phẩm [3]. Thoạt nhìn thì tất cả những 
phê phán đó đều rất có lý. Và thực tế một số 
phê phán đó không sai, tức là C.Mác không 
đúng. Nhưng để tách biệt điều bịa đặt với 
sự phê phán nghiêm túc và mang tính xây 
dựng, thì cần xem xét các tiền đề của sự phê 
phán ở đây. 
C.Mác và những người kế tục ông khi 
phát biểu các quy luật của xã hội đã không 
quên cảnh báo rằng, các quá trình xã hội 
khác với các quá trình tự nhiên. C.Mác 
không dẫn ra bất kỳ quy luật “thép” nào. 
Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác nghiên cứu 
chủ nghĩa tư bản công nghiệp cổ điển và chỉ 
ra một số tính quy luật kinh tế - xã hội rất 
đặc trưng của nó. Khi phát triển tư tưởng 
của Adam Smith và Ricardo, C.Mác đã chỉ 
ra rằng, khởi điểm của hệ thống tư bản chủ 
nghĩa chính là sản xuất hàng hóa. Cơ sở của 
nền sản xuất ở xã hội đó là sự phân tách 
những người sản xuất và sự phân công lao 
động mang tính xã hội. Tương ứng, nơi nào 
những người sản xuất bị phân tách và có 
phân công lao động, thì ở đó thị trường sẽ 
phát triển. Còn nơi nào chúng bị hạn chế thì 
thị trường sẽ còi cọc. Ở đây không có sai 
lầm nào. Tiếp theo, C.Mác chỉ ra (và đây là 
chỗ ông khác hẳn với các nhà kinh tế tự do 
đương thời) rằng, thị trường là hệ thống bị 
giới hạn về mặt lịch sử bởi các quan hệ của 
con người, chứ không phải là “cơ chế tự 
nhiên và vĩnh hằng”. Ông không chỉ trả lời 
câu hỏi thị trường xuất hiện ở đâu và khi 
nào, mà còn trả lời câu hỏi vì sao thị trường 
xuất hiện. Theo ông, do sự phát triển của sự 
điều tiết xã hội và do sự tiến bộ của lao 
động sáng tạo phổ biến tạo ra phúc lợi xã 
hội, nên thị trường sẽ bị vượt bỏ bởi cách 
thức tổ chức sản xuất mới. Ở đây cũng 
không hề có sai lầm. Hơn thế nữa, C.Mác 
chứng minh rằng, không phải lúc nào người 
ta cũng luôn hướng đến và ưu tiên cho việc 
tối đa hóa tiền bạc và tối thiểu hóa lao 
động. Ngoài hệ thống thị trường (trong các 
quan hệ xã hội khác), con người cư xử 
khác. Nhưng trong điều kiện thị trường và 
tư bản thống trị, các phẩm chất người, các 
giá trị, các động lực bắt buộc phải phục 
tùng quyền lực của hàng hóa và tiền bạc. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
28 
Ví dụ: nếu anh có “Mercedes 600” thì anh 
là người đẳng cấp, thông minh, tài năng. 
Nếu không có nó thì anh là người “quá tầm 
thường”. Tương hợp với chuẩn thị trường 
khắc nghiệt (sự đo lường các phẩm chất 
người bằng tiền bạc), một giáo viên nhiệt 
tình cắm bản vùng sâu vùng xa kém hiệu 
quả cả triệu lần so với một kẻ tham nhũng 
vơ vét của dân; một đại gia tài chính hàng 
nghìn lần tài năng hơn nhà khoa học được 
giải thưởng Nobel. Thị trường đảo lộn 
chân lên đầu các quan hệ người như thế khi 
cổ súy ầm ĩ cho hàng hóa và tiền bạc. Lẽ 
nào ở điểm này C.Mác không đúng? C.Mác 
quá đúng. 
Những ai trung thành với các lý tưởng xã 
hội chủ nghĩa gần ba thập niên qua đã hoàn 
toàn bị thuyết phục về tính đúng đắn của 
quy luật nói rằng hệ thống kinh tế - xã hội 
khác sẽ sinh ra các giá trị và động lực khác 
và các kiểu người khác. Bao giá trị chuẩn 
mực đạo đức đã bị đảo lộn trong khoảng 
thời gian trên khi nhiều nước chuyển sang 
kinh tế thị trường. Nhiều thứ tuy đã từng là 
điều không thể chấp nhận đối với số đông 
người trung niên hiện nay 20 - 30 năm 
trước, nhưng hiện nay đã thành chuẩn cho 
phần đa giới trẻ. C.Mác đã đúng khi chỉ ra 
lý do và cách thức mà điều đó diễn ra. 
C.Mác còn chỉ ra cả điều khác nữa. Ở một 
số nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã từng 
có các trại tập trung hà khắc. Nhưng ở các 
nước đó cũng từng có nhiều thứ khác. Đã 
có hàng triệu triệu người trẻ tuổi vào những 
năm 1960 - 1970 say đắm thi ca, vũ trụ, vật 
lý và tham gia vỡ hoang những vùng đất 
mới. Những ai coi cái chính của cuộc đời là 
tiền bạc vẫn được cư xử bình thường. Và 
ngay bây giờ, vẫn có hàng trăm nghìn 
người tự nguyện tham gia các hoạt động 
thiện nguyện và bảo vệ môi trường, tham 
gia vào các phong trào xã hội khác. Đối với 
họ, cái chính trong cuộc đời là làm sao thay 
đổi tự nhiên và xã hội cho tốt hơn, chứ 
không chỉ là tiền bạc. Đó là những người 
rất đỗi bình thường. Những hoạt động khác 
và những quan hệ giao tiếp khác đã sinh ra 
ở họ những giá trị và động lực khác. C.Mác 
không sai khi chỉ ra rằng, thị trường (chứ 
không phải “bản tính tự nhiên của con 
người) sinh ra khao khát bạc tiền, các quan 
hệ ngoài thị trường sẽ phát triển các giá trị, 
động cơ và kiểu nhân cách. 
Trong tác phẩm Tư bản, lần đầu tiên 
C.Mác phát biểu nhiều luận đề mà sau này 
đã được đưa vào các sách giáo khoa kinh tế 
học hiện đại. C.Mác chứng minh rằng, sự 
phát triển của thị trường dẫn đến sự phân 
hóa những người tham gia vào thị trường. 
Một số giàu lên và trở thành những người 
sở hữu tư bản. Một số khác nghèo đi, bị 
tước mất sở hữu và biến thành những người 
làm thuê (vì sức lao động của họ là cái duy 
nhất mà họ có để mang đi trao đổi). Ở các 
nước hậu xã hội chủ nghĩa xây dựng kinh tế 
thị trường, quy luật này thể hiện rất rõ: 
trong vòng chưa đến chục năm, những 
người dám kinh doanh tư nhân thì thành 
nhà tư sản, còn phần lớn thì thành những 
người làm thuê. 
Tại đây diễn ra cuộc tranh cãi dài lâu 
(hơn thế kỷ chưa dứt) giữa những người 
mác xit và những người theo thuyết các yếu 
tố sản xuất. Những người theo thuyết này 
cố chứng minh rằng, lợi nhuận được tạo ra 
bởi tự thân tư bản, chứ không phải bởi lao 
động thặng dư của nhân công làm thuê bị 
kẻ sở hữu tư liệu sản xuất tước đoạt không 
hoàn trả. Nhưng đây mới là điểm chính: 
trên thực tế các nhà tư bản, chứ không chỉ 
những nhân công làm thuê, trong tương tác 
với nhau, hiểu quá rõ rằng các lợi ích của 
họ đối lập nhau một cách căn bản. Tất cả 
bắt đầu từ chỗ, nhà tư bản cố kéo dài ngày 
Nguyễn Anh Tuấn 
 29 
làm việc, còn công nhân thì cố rút ngắn nó; 
nhà tư bản cố tiết giảm tiền lương (để tăng 
lợi nhuận), còn công nhân làm thuê thì cố 
làm ngược lại. Khi lập ra các công đoàn và 
các tổ chức chính trị (các đảng dân chủ - xã 
hội, về sau này là các đảng xã hội chủ nghĩa 
và đảng cộng sản), giai cấp những người 
làm thuê bắt đầu đạt được sự phân phối lại 
căn bản lợi nhuận về phía mình. Ví dụ đơn 
giản cho điều này là việc nhiều nhà nước 
thực hiện đánh thuế thu nhập lũy tiến 
để buộc những người giàu phải chia sẻ 
đến một nửa thu nhập của mình cho các quỹ 
xã hội. 
Vậy là, ở đâu cuộc đấu tranh kinh tế và 
chính trị của lao động làm thuê và các tổ 
chức chính trị - xã hội đại diện cho họ diễn 
ra tích cực và giành thắng lợi, thì ở đó ngày 
làm việc mới thu hẹp, lương và các phúc lợi 
xã hội mới tăng. Khi cuộc đấu tranh này 
suy giảm, thì lương thực tế, các phúc lợi xã 
hội đều sụt giảm tương đối (và trong nhiều 
trường hợp như ở Mỹ những năm 90 thế kỷ 
trước, sụt giảm cả tuyệt đối). C.Mác và các 
nhà mác xít chân chính hoàn toàn không 
cho rằng đấu tranh giai cấp là yếu tố vạn 
năng để giải thích toàn diện sự phát triển 
nhân loại. Phái mácxít giáo điều thời Stalin 
gán cho đấu tranh giai cấp vai trò này. 
C.Mác và các nhà mác xít chân chính đã 
nhiều lần chỉ ra rằng, đấu tranh giai cấp là 
đặc trưng cho những xã hội mà ở đó các 
quan hệ sản xuất đưa đến sự hình thành 
những lực lượng xã hội lớn tách biệt rạch 
ròi với vị trí khác nhau (kể cả đối lập nhau). 
Kết cấu xã hội như thế không hề là tất yếu 
cho mọi xã hội, mà chỉ tất yếu cho các xã 
hội phân chia thành giai cấp. Cũng chính 
C.Mác đã viết không ít về đặc thù khác của 
các xã hội Châu Á, thậm chí của Ấn Độ hay 
của nước Nga. Do vậy, không thể gán ép 
cho C.Mác và các nhà mác xít chân chính 
những gì không thuộc về họ. 
3. Tư tưởng của C.Mác về sở hữu tư nhân 
Tập 1 của tác phẩm Tư bản kết thúc bằng 
những lời nổi tiếng: “Giờ tận số của chế độ 
tư hữu tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ 
đi tước đoạt bị tước đoạt” [2, tr.1059]. Và 
các nhà mác ... cuối cùng rất quan trọng là ở chỗ, 
sở hữu xã hội hiện thời nắm giữ hầu như 
phần lớn nền kinh tế hậu công nghiệp của 
tương lai, nơi làm việc chủ yếu của lớp 
người lao động mới. Nếu nhìn vào mô hình 
Xcanđinavơ gần gũi nhất với lý tưởng của 
C.Mác, thì chúng ta sẽ rõ không ít điều thú 
vị. Như ở Phần Lan, hầu hết trường phổ 
thông, trường đại học, hầu hết cơ sở y tế, 
thể thao, văn hóa và khoa học cơ bản đều 
đã thuộc khu vực nhà nước và vận hành 
không vì lợi nhuận, tức không theo các 
nguyên tắc thị trường. Hơn thế nữa, ở các 
nước này thông qua thuế thu nhập lũy tiến 
và nhiều các kênh khác, có đến một nửa lợi 
nhuận của tư bản được phân phối lại cho 
người lao động. Nói cách khác, các nước 
này đã có những bước đi đáng kể trên 
đường hiện thực hóa xu hướng phát triển xã 
hội mà C.Mác đã thấy. Trong chuyện này, 
C.Mác cũng nhiều lần nhắc nhở rằng, có 
không ít những trở ngại khiến cho sự tiến 
bộ trên con đường đó, con đường không 
phải là thẳng tắp và không tự trôi chảy 
được, nơi nào mà các lực lượng hiện thực 
hóa những xu hướng tiến bộ chiếm ưu thế 
và lực lượng phản động yếu hơn, thì nơi đó 
sẽ đi nhanh và hiệu quả hơn. 
4. Tư tưởng của C.Mác về các quy luật 
khách quan của chủ nghĩa tư bản 
Những người mác xít luôn nhấn mạnh rằng, 
lịch sử có sự tác động của các quy luật 
khách quan, nhưng việc thể hiện của các 
quy luật đó (thể hiện như thế nào, khi nào, 
bằng giá nào và phương thức nào) lại phụ 
thuộc vào những người sáng tạo ra lịch sử. 
Chẳng hạn, sự quá độ từ nền kinh tế tự 
nhiên, chế độ nông nô, chế độ quân chủ 
tuyệt đối, chế độ bất bình đẳng giai cấp 
sang nền kinh tế thị trường, chế độ lao động 
làm thuê, chế độ dân chủ và chế độ tôn 
trọng các quyền cơ bản của con người, là tất 
yếu. Nhưng sự quá độ đó ở một số nước 
thì diễn ra nhanh và hiệu quả ngay ở thế 
kỷ XVI, còn ở một số nước khác lại diễn ra 
chậm đến cả năm trăm năm mà vẫn không 
thể kết thúc được. Nước Anh phải chi phí 
cho sự quá độ từ hệ thống phong kiến sang 
hệ thống tư bản chủ nghĩa bằng cái giá “luật 
pháp đẫm máu” với các cuộc cách mạng và 
chiến tranh. Hoa Kỳ thì trả giá cho sự quá 
độ đó bằng cuộc chiến tranh chống lại 
chính nước Anh (đòi quyền được xây dựng 
chủ nghĩa tư bản, chứ không chịu là thuộc 
địa) cộng thêm cuộc nội chiến Nam - Bắc 
(đẫm máu nhất trong thế kỷ XIX) và chế 
độ nô lệ được duy trì ở phân nửa lãnh thổ 
của mình. 
Trong thế giới hiện đại (nơi đang diễn ra 
sự tích hợp toàn cầu các thị trường quốc gia 
vào hệ thống kinh tế thế giới đầy rẫy những 
mâu thuẫn mới, nơi bắt đầu các cuộc cách 
mạng công nghiệp mới, nơi có các thế lực 
độc quyền và chính sách chống độc quyền, 
Nguyễn Anh Tuấn 
 31 
nơi mà sự điều tiết của nhà nước đối với 
các biện pháp an sinh xã hội có quy mô 
ngang ngửa một phần ba thu nhập quốc 
dân), các quy luật của chủ nghĩa tư bản 
công nghiệp cổ điển không thể tác động 
chính xác như đã được mô tả trong tác 
phẩm Tư bản. Nhưng điều đó cũng ví như 
việc chiếc phi cơ vút bay lên trời xanh 
không phủ định tính đúng đắn của định luật 
vạn vật hấp dẫn (theo đó vật thể nặng hơn 
không khí phải rơi xuống đất). Phi cơ 
không rơi xuống vì có một lực khác cản trở 
sự rơi đó (trong trường hợp này là lực nâng 
của đôi cánh phi cơ). Giống như vậy, một 
số quá trình làm giảm tốc độ phân hóa xã 
hội diễn ra ở một số thời kỳ thuộc thế kỷ 
XX (do giai cấp tư sản phải tái phân phối 
đáng kể thu nhập từ nó sang cho giai cấp 
công nhân làm thuê) không phải là luận cứ 
bác bỏ quy luật bần cùng hóa tương đối giai 
cấp vô sản. 
Cũng có thể nói chính xác như vậy về 
các quy luật khác được C.Mác khám phá và 
luận chứng trong tác phẩm Tư bản. Quy 
luật tăng cường xã hội hóa sản xuất, quy 
luật xu hướng giảm tỷ suất lợi nhuận bình 
quân, một loạt quy luật khác (hiện đang bị 
phê phán dữ dội) đều được C.Mác nghiêm 
cẩn rút ra từ một số tiền đề. Các tiền đề 
quan trọng nhất trong số chúng là sự tác 
động của quy luật giá trị (dạng kinh điển 
của quy luật này giả định cạnh tranh tự do), 
sự tác động của quy luật giá trị thặng dư (sự 
tác động kinh điển của quy luật này giả 
định rằng lao động phải phục tùng đối với 
tư bản, công nhân không tham gia vào quản 
lý và phân phối lợi nhuận, công nhân không 
có quyền sở hữu, tái phân phối một phần 
giá trị thặng dư thông qua các cơ chế kiểu 
như thuế thu nhập lũy tiến), sự tăng 
trưởng của tư bản (tiền đề cuối cùng này 
đặc biệt quan trọng). 
5. Tư tưởng của C.Mác về sự suy vong 
của chủ nghĩa tư bản 
Thời khắc chuyển giao từ thế kỷ XIX sang 
thế kỷ XX là sự quá độ của hệ thống kinh 
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa từ giai đoạn cũ 
sang giai đoạn mới (sang giai đoạn tự phủ 
định, “hủy hoại” các cơ sở riêng của mình). 
“Trạng thái cổ điển” (của chủ nghĩa tư bản 
ở các nước phát triển đã kết thúc hơn một 
trăm năm trước đây) được thay thế bằng 
trạng thái “suy vong”. “Sự gieo mầm” chủ 
nghĩa xã hội lên thân thể chủ nghĩa tư bản 
già nua đã diễn ra hàng trăm năm nay rồi. 
Quá trình này không hề bằng phẳng, lúc thì 
tăng tốc (như vào những năm 60 thế kỷ XX 
ở Liên Xô), lúc lại suy yếu (như những thập 
niên cuối đây), nhưng không hề biến mất và 
sẽ không mất đi. Ngay từ hàng trăm năm 
trước, các học giả mác xít đã liệt kê vô số 
hình thức điều tiết tự giác thị trường (từ 
phía các tập đoàn lớn lẫn từ phía nhà nước), 
vô số hình thức tái phân phối thu nhập và 
an sinh xã hội (phân phối không mất tiền 
cho công dân về các phúc lợi xã hội cơ bản 
như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, văn hóa). 
Có thể bổ sung thêm vào đó là tính tích cực 
tự giác của các phong trào xã hội và của các 
tổ chức phi chính phủ, sự hiện tồn qua 
nhiều thập niên của nhiều nước phát triển 
theo hướng phi tư bản chủ nghĩa. 
Vậy vì sao các cuộc cách mạng xã hội 
chủ nghĩa trong thế kỷ XX đã diễn ra ở các 
nước chậm phát triển và kết thúc bằng sự 
khủng hoảng của “chủ nghĩa xã hội hiện 
thực”? Vì sao chủ nghĩa tư bản đã bước 
sang giai đoạn mới (hậu công nghiệp, “hậu 
cổ điển”) mà vẫn chưa bị lật đổ bởi các 
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi 
(tính tất yếu của các cuộc cách mạng này, 
thoạt nhìn, đã được C.Mác rút ra từ các mâu 
thuẫn của chính chủ nghĩa tư bản công 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
32 
nghiệp cổ điển)? Đây là các câu hỏi có tính 
nguyên tắc và vẫn chưa có câu trả lời rõ 
ràng. Thực tiễn của nhiều thập niên trôi qua 
sau khi C.Mác qua đời đặt ra yêu cầu không 
chỉ cần phải phát triển và phê phán nhiều 
luận điểm đã quá cũ của C.Mác. Dù đã có 
hàng chục công trình tuyệt vời và đầy tài 
năng của các nhà mác xít (vào thế kỷ XX và 
đầu thế kỷ này) phân tích sâu sắc bản chất 
của chủ nghĩa tư bản “hậu kỳ” đương thời, 
nhưng vẫn không một công trình nào có thể 
được coi là “Tư bản thế kỷ XX”. 
Chủ nghĩa Mác kinh điển đã chứng minh 
rằng chủ nghĩa tư bản công nghiệp tạo ra 
những tiền đề cần thiết cho cách mạng xã 
hội chủ nghĩa và chủ thể của nó là giai cấp 
công nhân làm thuê. Nhưng trong tất cả các 
tác phẩm của mình, các nhà kinh điển đều 
nhiều lần nhấn mạnh rằng tiềm năng đó chỉ 
chuyển hóa thành hiện thực khi đã hình 
thành đủ các tiền đề chính trị - xã hội cần 
thiết. Tuy nhiên, khía cạnh này không phải 
là chủ yếu nhất. Có điểm khác quan trọng 
hơn. Theo nhiều học giả, C.Mác thực sự 
chưa đúng ở suy tư về khả năng và tính tất 
yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như là 
sản phẩm của chủ nghĩa tư bản công nghiệp 
cổ điển [3]. 
Khi xem xét sự chuyển biến từ một hệ 
thống kinh tế - xã hội này sang hệ thống 
khác, cần chỉ ra vì sao luận điểm về tính tất 
định của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong 
các điều kiện của chủ nghĩa tư bản công 
nghiệp lại không đúng. Nói cách khác, 
trong vấn đề này cần phải phê phán mang 
tính xây dựng đối với chính một số kết luận 
vội vã của C.Mác. 
Chúng tôi bắt đầu từ luận đề (đã được 
chứng thực bởi kinh nghiệm thế kỷ qua và 
đủ rõ ràng nhưng thường bị các nhà phê 
phán chủ nghĩa Mác “lãng quên”) cho rằng, 
sự thay thế các hệ thống kinh tế - xã hội 
diễn ra không phải như một sự kiện nhất 
thời nhảy từ một chỉnh thể phát triển này 
sang chỉnh thể phát triển khác, mà phải như 
một quá trình dài lâu (quá trình suy vong 
của một hệ thống và sinh thành của hệ 
thống khác). Trong toàn bộ thời kỳ chuyển 
tiếp đó, có cả các cuộc cách mạng lẫn phản 
cách mạng, cải cách và chống cải cách. Các 
hình thức quá độ bao gồm cả những mầm 
mống mới về chất của sự phát triển xã hội 
được hình thành trong khuôn khổ hệ thống 
cũ; những yếu tố còn giá trị của hệ thống cũ 
nhất thiết phải được bảo toàn trong khuôn 
khổ hệ thống mới đang định hình. Trong 
thời chuyển giao này không phải các quan 
hệ và hình thức “thuần khiết”, mà các quan 
hệ và hình thức quá độ là những yếu tố 
thống trị. 
C.Mác “mô tả” phép biện chứng của sự 
quá độ khá yếu. Chỉ có một số đoạn chứng 
tỏ rằng C.Mác có thấy vấn đề này. Bù lại, 
trong các công trình của các nhà mácxít thế 
kỷ XX và những năm gần đây đã viết và 
còn chứng minh không ít về điều này. Và 
những chứng minh đó cho phép kết luận 
rằng, lý luận mác xít có khả năng giải thích 
nhiều những dích dắc đầy rẫy trong lịch sử 
trăm năm cuối đây. Nhưng để có được điều 
đó cần phải cùng với các nhà mác xít đi xa 
hơn C.Mác và phải tính hết sự đa dạng của 
thời kỳ chuyển biến từ một hệ thống này 
thành hệ thống khác. 
Để phân tích quá trình sinh thành xã hội 
mới (mà C.Mác gọi là chủ nghĩa cộng sản), 
có thể và cần phải áp dụng một cách có phê 
phán phương pháp luận nghiên cứu sự hình 
thành của tư bản đã được chính C.Mác 
dùng, nhất là quá trình chuyển từ sự phục 
tùng hình thức sang phục tùng thực tế của 
lao động đối với tư bản. Phương pháp luận 
này được thể hiện qua nghiên cứu sự phát 
triển của chủ nghĩa tư bản từ hình thức hiệp 
Nguyễn Anh Tuấn 
 33 
tác giản đơn đến hình thức công trường thủ 
công và nhà máy. Ở những giai đoạn đầu 
tiên của sự hình thành, chủ nghĩa tư bản 
phát triển trên nền tảng công nghệ đặc trưng 
cho chế độ phong kiến (công nghệ dựa trên 
cơ sở lao động tay chân). Trên cơ sở công 
nghệ của công trường thủ công, chủ nghĩa 
tư bản có thể giành thắng lợi trước chế độ 
phong kiến (như đã xảy ra ở Hà Lan vào thế 
kỷ XVI), nhưng thắng lợi đó chưa bền 
vững vì chưa có công nghệ của nền công. 
Với công nghệ của nền công nghiệp, chủ 
nghĩa tư bản mới chiến thắng đến cùng 
(nhưng cũng không phải ở khắp nơi và ngay 
lập tức). 
Như vậy, trên nền tảng công nghệ đặc 
trưng cho hệ thống cũ (lao động tay chân 
đối với các hệ thống tiền tư bản chủ nghĩa, 
lao động công nghiệp đối với chủ nghĩa tư 
bản), hệ thống mới (tương ứng là chủ nghĩa 
tư bản hay chủ nghĩa xã hội) có thể nảy 
sinh, mà cũng có thể không nảy sinh (tức là 
không tất yếu). Sự bứt phá cách mạng có 
thể dẫn đến thắng lợi và cũng có thể đến 
thất bại. Nếu thắng lợi thì sẽ bắt đầu sự phát 
triển của hệ thống mới trên nền tảng công 
nghệ còn chưa thích hợp với nó (có thể gọi 
hiện tượng này là “sự đột biến vượt trước”). 
Đây là tình huống các quan hệ sản xuất ít 
nhiều “vượt trước” so với nền tảng vật chất 
(với lực lượng sản xuất). Trong các điều 
kiện đó, nếu các lực lượng đấu tranh vì xã 
hội mới đủ mạnh, thì các quan hệ mới có 
thể hỗ trợ cuộc cách mạng công nghệ diễn 
ra suôn sẻ và điều đó sẽ củng cố cho thắng 
lợi của chế độ mới. Nếu không như vậy thì 
sự đột biến vượt trước sẽ kết thúc bằng 
thoái trào và các ý đồ xây đắp xã hội mới sẽ 
chết yểu. 
Từ sự phân tích nêu trên có thể đi tới kết 
luận sau: để cách mạng xã hội chủ nghĩa 
thành công lý tưởng nhất (mà trong thực 
tiễn, dĩ nhiên không bao giờ có thể đạt được 
đầy đủ) cần phải hội đủ 3 điều kiện: (1) 
trình độ năng suất lao động phải phát triển 
để ít nhất lao động được giải phóng về mặt 
hình thức; (2) các lực lượng xã hội giải 
phóng (vốn đứng ở “phía bên kia” giai cấp 
vô sản và dường như tạo thành một bên của 
sự đối kháng xã hội với nó) phải đủ phát 
triển; (3) các hình thức quan hệ chuyển tiếp 
phải hình thành tương đối “thuần khiết” 
thích hợp cho các nhiệm vụ tự phát triển 
của xã hội mới. Nói cách khác, nước nào có 
tiềm năng tiến bộ công nghệ và xã hội cao 
(không thấp hơn ở các nước phát triển hiện 
nay), đồng thời có sự hiện diện của chủ thể 
có tổ chức và tràn trề năng lượng sáng tạo, 
thì nước đó đi tới chủ nghĩa xã hội sẽ thuận 
hơn cả. 
Trong lịch sử hiện thực, mọi chuyện đã 
và sẽ phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn, ở Đế 
chế Nga đầu thế kỷ XX do các mâu thuẫn 
nội tại của nó đã được Chiến tranh thế giới 
lần thứ nhất làm gay gắt đến cực độ, nên 
mới chỉ có những tiền đề nhóm thứ hai (mà 
lại còn dưới dạng quá lạ lùng, đó là sự nổi 
giận của vài triệu binh lính, thủy thủ và 
công nhân sẵn sàng hiến dâng cuộc sống 
của mình để tháo bỏ những mâu thuẫn nặng 
nề không thể chịu nổi của nước Nga 
năm 1917, và đó là vài trăm nghìn những 
người Bôn sê vich có tổ chức và các đồng 
minh của họ thực sự có khả năng hướng 
đến sự sáng tạo xã hội tự giác). Vì thế, các 
tiền đề nhóm thứ nhất và thứ ba ở Nga đã 
được tạo lập với cái giá đắt đỏ bằng những 
yếu tố phi công nghệ và ngoài kinh tế, đó là 
bằng bạo lực tràn lan và lòng nhiệt tình đại 
chúng rất mạnh mẽ. Sự cạn kiệt tất yếu tiềm 
năng ban đầu (vào những năm 50) của 
nhóm thứ nhất, và sau đó (vào cuối những 
năm 60) của nhóm thứ hai đã gây ra sự sụp 
đổ không thể tránh khỏi của sự đột biến xã 
hội chủ nghĩa vượt trước đó. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2017 
34 
6. Kết luận 
Phần lớn những luận điểm của C.Mác nêu 
trong tác phẩm Tư bản không chỉ đúng ở 
thời chủ nghĩa tư bản hình thành, mà vẫn 
đang vững vàng vượt qua nhiều thử thách 
trong những điều kiện mới hiện nay. Bên 
cạnh đó, cũng có những luận điểm đã bị 
thực tiễn vượt qua cần phải được căn chỉnh. 
Nhưng mọi sự chỉnh sửa, bổ sung hay phát 
triển Mác đều chỉ có thể thành công trong 
khuôn khổ chủ nghĩa Mác bằng chính 
phương pháp luận biện chứng mácxít 
mà C.Mác đã dày công xây dựng trong 
tác phảm Tư bản và nhiều công trình khác 
của mình. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phạm Văn Chúc (2017), “Chủ nghĩa xã hội 
hiện thực trên thế giới 100 năm qua”, Tạp chí 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10. 
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.23, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[3] А.В.Бузгалин (2008), “XXI век и “провалы 
марксизма”: в чем был прав и в чем 
ошибался Карл Маркс?”, Альтернативы, 
№ 4. 
[4] Т.Ойзермана (2003), Марксизм и утопизм, 
Москва. 
[5] В.М.Межуев (2008), Маркс против марксизма, 
Москва. 
[6] О.Ананьина (2007), “Карл Маркс и его 
“Капитал”: из девятнадцатого в двадцать 
первый век”, Вопросы экономики, № 9. 
[7] Ю.К.Плетников (2008), Материалистическое 
понимание истории и проблемы теории 
социализма, Москва. 
[8] В.С.Семенов (2009), Социализм и 
революции XXI века. Россия и мир, Москва. 
[9] В.Н.Шевченко (2004), “Советская модель 
социалистического общества: причины 
поражения”, Исторические судьбы 
социализма, Москва. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_c_mac_ve_chu_nghia_tu_ban.pdf